Từ điển Phật học

Chủ trương
Thích Nguyên Lộc

Biên tập
Thích Nguyên Hùng
Viên Lợi
Tuệ Lạc


Chùa Vạn Hạnh
3 rue du Souvenir Français
44800 Saint Herblain
Email vanhanh@vanhanh.fr
Site http://www.vanhanh.fr

 Tìm theo chữ  

Tiếng Việt
Français
English
中文
Sankrit,Pali

 Tìm theo vần 
a b c e f g h i 
j k l m n o p q 
r s t u v w x y z 

 Tìm theo đề tài :
Phật và Bồ TátKinh tạngTên, địa danhTừ phật học

Song ngữ
VN-FRVN-ENVN-CHFR-VNFR-ENEN-VNEN-FR

Warning: mysql_close(): supplied argument is not a valid MySQL-Link resource in /mnt/130/sdb/a/3/chuavanhanh/script/function_base.php on line 23
Trang : 1  2 

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi      Bodhisattva Manjushri         文殊師利    Mañjuśrī
Thường gọi tắt là Bồ Tát Văn Thù, là vị Bồ-tát có công đức vi diệu, luôn đem đến sự tốt đẹp vi diệu, luôn đem đến sự hạnh phúc, an lạc vi diệu, xứng đáng là con của bậc Pháp vương. Trong truyền thống Phật giáo Đại thừa, Bồ-tát Văn-thù tượng trưng cho trí tuệ. Ngài thường ngồi trên lưng Sư tử xanh, tay phải cầm kiếm sắc bén, tay trái cầm hoa sen xanh, hoặc cuốn kinh Bát-nhă, đôi khi là ngọc như ư. Tay phải của Ngài dương cao lên khỏi đầu là một lưỡi gươm đang bốc lửa mang hàm ư rằng chính lưỡi gươm vàng trí tuệ này sẽ chặt đứt tất cả những xiềng xích trói buộc của vô minh phiền năo đă cột chặt con người vào những khổ đau và bất hạnh của ṿng sinh tử luân hồi bất tận, đưa con người đến trí tuệ viên măn. Tay trái Ngài cầm hoa sen biểu thị cho đức tính đă đoạn trừ sạch mọi phiền năo và ngụ ư nói Bồ tát với tâm Từ Bi, tùy nguyện thị hiện vào cuộc đời để hóa độ chúng sinh nhưng không bị những nhiễm ô của cuộc đời làm vấy nhiễm mà luôn thuần nhất thanh tịnh; nhưng nếu Ngài cầm cuốn kinh Bát-nhă th́ biểu trưng cho sự tỉnh thức, giác ngộ. C̣n sư tử là biểu thị công năng và sức mạnh của trí tuệ - bởi sư tử là chúa tể của muôn thú có sức mạnh vĩ đại, mỗi khi rống lên muôn thú đều khiếp sợ - Bồ-tát do đă đạt được trí tuệ viên măn nên hay thuyết pháp phá dẹp các tà thuyết sai lạc. Văn Thù Sư Lợi là vị Bồ Tát tượng trưng cho kinh nghiệm giác ngộ đạt được bằng phương tiện tri thức.

Biệt giải thoát luật nghi vô biểu              別解脫律儀無表    prātimokṣa-saṃvara
Nhờ sự xa lánh tội lỗi nơi thân, khẩu của riêng từng giới mà đạt được thể vô biểu. Như đệ tử Phật nhờ thọ tŕ các phẩm bậc giới luật, 5 giới, 10 giới, 250 giới, 348 giới, v.v… mà đạt được thể vô biểu.

Chư hành vô thường      impermanence des multiples mouvements    Whatever is phenomenal is impermanent.    諸行無常    Anityāḥ sarva-saṃskārāḥ
Hết thảy hiện tượng và muôn vật trong thế gian luôn luôn biến chuyển không ngừng. Đây là đại cương căn bản của Phật pháp. Cùng với Chư pháp vô ngă, Niết bàn tịch tĩnh cùng là một trong ba pháp ấn, gọi là Chư hành vô thường ấn, Nhất thiết hành vô thường ấn, Nhất thiết hữu vi pháp vô thường ấn. Gọi là ba pháp ân, tức là nhờ vào ba thứ pháp môn mà phán đoán được Phật pháp có cùng tột hay không.

Hộc phạn vương      Dronodana        斛飯王    Droṇodana
Con trai của vua Siṃhahanu (Sư tử giáp vương, trị v́ nước Kapilavastu (Ca tỳ la vệ), là em của vua Suddhodana (Tịnh phạn vương), tức là chú của đức Phật. Lịch sử của ông này không được ghi chép rơ ràng. Căn cứ kinh luận th́ biết ông có hai con, nhưng không thống nhất, hoặc nói là A ni lâu đà và Bạt đề lê ca, hoặc nói là Ma ha nam và A ni lâu đà, hoặc nói Đề bà đạt đa và A nan.

Hữu vi      Conditionné, composé        有爲    saṃskṛta
Hữu vi là có hành vi tạo tác. Thuật ngữ này dùng để chỉ hiện tượng các pháp do nhân duyên hoà hợp mà thành, nên gọi các pháp là Pháp hữu vi, ngược lại với Pháp vô vi.

Kỳ viên tinh xá              祇園精舍    Jetavanānāthapiṇḍadasyārāma
Vị trí
Nằm phía Nam thủ đô Xá-vệ nước Kiều-tất-la.
Tên gọi
Tên gọi đầy đủ là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên, Jetavanānāthapiṇḍadasyārāma
Tên gọi khác: Kỳ-hoàn, Kỳ viên, Thệ-đà lâm, Thắng lâm.
Kỳ Thọ là chỉ cho khu Lâm viên của thái tử Kỳ-đà, con vua Ba-tư-nặc.
Cấp Cô Độc là trưởng giả thành Xá-vệ, cũng là biệt hiệu của Tu-đạt, Chủ tạng sử của quốc vương Ba-tư-nặc.
Vùng đất của Tinh xá này vốn là Lâm viên của thái tử Kỳ-đà. Trưởng giả Tu-đạt muốn mua lại vùng đất này (ước tính khoảng 100 mẫu) để xây dựng Tinh xá cúng dường Đức Phật và Tăng đoàn. Thái tử ra điều kiện, nếu Tu-đạt có thể đem vàng ṛng rải khắp mặt đất Lâm viên th́ thái tử sẽ bán cho. Tu-đạt y lời, đem vàng trải khắp Lâm viên khiến cho thái tử Kỳ-đà cảm nhận được thành tâm của ông, nên thái tử đă phát tâm cúng dường toàn bộ cây trong Lâm viên để cả hai người cùng kiến tạo Tinh xá. V́ lư do này mà Tinh xá có tên là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên.
Thánh tích
- Đức Phật an cư ở Tinh xá này 24 lần. Phần lớn kinh điển đều được Đức Phật thuyết giảng ở đây.
- Góc phía Bắc của Tinh xá có Viện vô thường, để cho những người bệnh an dưỡng. Khi nằm ở viện này, nghe đến tên, là người bệnh lănh ngộ được tất cả các pháp đều vô thường, nhờ vậy mà an nhiên viên tịch.
- Tại Tinh xá này, Đức Phật đă lên cơi trời Đao Lợi thuyết pháp ba tháng. Vua Ưu-điền v́ nhớ Phật đă cho khắc tượng Ngài bằng gỗ Chiên-đàn, cao 5 thước. Vua Ba-tư-nặc biết được, đă cho đúc tượng Phật bằng vàng ṛng, cũng cao 5 thước. Đó là hai pho tượng Phật đầu tiên trong lịch sử h́nh tượng Phật giáo.
- Gần Tinh xá ngày nay vẫn c̣n một mô đất cao, đó là nơi tứ chúng đệ tử đắp tam cấp để cung nghinh Đức Phật từ cung trời trở lại nhân gian.
- Trong Tinh xá có động Hoa lâm, Kareri-kuṭikā. Đức Thế Tôn từng cư trú trong động này.
- Một tinh xá nhỏ, có tên là Tùng lâm tinh xá, Śalalā-gāraka, đúng ra nên gọi là tịnh thất. Đó là tịnh thất Thế Tôn thường vào nhập định.
- Gần Tịnh xá Kỳ Viên là di tích nhà ông Cấp Cô Độc; tháp tưởng niệm đại tướng cướp Aṅgulimālya được Phật hóa độ.

Không vô biên xứ      Sphère de l'infini de l'espace    Sphere of the infinity of space    空無邊處    Ăkăsanantăyatana
Tầng trời thứ nhất trong 4 tầng trời của cơi Vô sắc. Chúng sinh ở cơi này v́ nhám chán h́nh sắc nên không có sắc uẩn, chỉ có 4 uẩn thọ, tưởng, hành, thức.

Như thị ngă văn      Ainsi ai-je entendu    Thus have I heard    如是我聞    Evaṁ mayā srutam
C̣n gọi Ngă văn như thị, Văn như thị.
Là câu mở đầu một bản kinh.
Lúc đức Thế tôn sắp nhập diệt, Ngài đă dặn tôn giả A nan, vị đệ tử đa văn bậc nhất, rằng kinh tạng do Ngài tuyên thuyết trong một đời đều phải đặt ở đầu quyển câu "Như thị ngă văn" để phân biệt với kinh điển của ngoại đạo.
Như thị là chỉ cho lời nói, việc làm và cử chỉ của đức Phật được tŕnh bày trong kinh. C̣n Ngă văn th́ chỉ cho người biên tập kinh tạng là tôn giả A nan, tự nói chính ḿnh đă được nghe những lời đức Phật nói và thấy những việc đức Phật làm. Như thị cũng có nghĩa là tin thuận theo giáo pháp mà chính ḿnh đă được nghe; Ngă văn là người có niềm tin vững chắc vào giáo pháp được nghe ấy. Đây chính là Tín thành tựu và Văn thành tựu, cũng gọi là Chứng tín tự.

Phạm thiên vương          great brahman heaven    梵天王    Mahābrahamā
Đại Phạm thiên, chúa tể của tầng trời Sơ thiền thuộc Sắc giới.
Trong triết học Ấn độ, Phạm thiên vương có tên là Thi-khí (Śikhin), c̣n gọi là Ta-bà thế giới chủ (Chúa tể của thế giới Ta-bà), hay Thế chủ thiên (Thiên chúa của cơi đời).
Trong Phật giáo, Đại phạm thiên là người rất kính tin Chánh pháp. Mỗi khi gặp Đức Phật ra đời, Đại phạm thiên chính là người đầu tiên thỉnh Phật chuyển pháp luân. Ông thường đứng hầu bên tay phải của Phật, tay cầm phất trần màu trắng.

Tứ Vô Lượng Tâm (Từ Bi Hỷ Xả)      Quatre incommensurables    four immeasurable minds    四無量心    catvāry apramāṇāni
Bốn tâm rộng lớn làm lợi ích cho chúng sanh. V́ muốn giúp cho vô lượng chúng sanh ĺa khổ được vui mà khởi bốn loại tâm Từ - Bi – Hỷ - Xả, hoặc nhập vào bốn loại thiền quán Từ - Bi – Hỷ - Xả.
C̣n gọi là Bốn vô lượng, Bốn đẳng tâm, Bốn đẳng, Bốn phạm trụ, Bốn phạm hạnh, Vô lượng tâm giải thoát.
- Từ: Tâm thương yêu.
- Bi: Tâm đồng cảm với nỗi khổ đau của chúng sanh.
- Hỷ: Hoan hỷ khi nh́n thấy chúng sanh hạnh phúc.
- Xả: Xả bỏ tất cả các tướng sai biệt giữa người oán kẻ thân mà khởi cái nh́n b́nh đẳng với mọi loài chúng sanh.
- Từ tâm vô lượng là tâm đem cho chúng sanh an lạc không cùng tận.
- Bi tâm vô lượng là tâm cứu bạt chúng sanh thoát khỏi khổ năo không giới hạn.
- Hỷ tâm vô lượng là tâm không bao giờ ganh tỵ khi nh́n thấy chúng sanh hưởng hạnh phúc an lạc, ngược lạc c̣n vô cùng hoan hỷ.
- Xả tâm vô lượng là tâm xả bỏ tất cả mọi ư niệm phân biệt giữa người thân, kẻ oán, khởi tâm b́nh đẳng nh́n chúng sanh và đem đến cho chúng sanh vô lượng lợi ích.

Tứ vô sở uư               四無所畏    catvāri-vaiśāradyāni
Bốn điều không sợ hăi, hay không do dự, không mơ hồ, gồm bốn điều của Bồ Tát và bốn điều của Như Lai. C̣n gọi là bốn loại trí lực (tứ chủng trí lực, 四種智力), bốn điều tự tín, gọi tắt là Tứ vô uư.

A. Tứ vô sở uư của Phật

Phạm Catvāri tathāgatasya vaiśāradyāni. Phật thành tựu trí tuệ đầy đủ mười thứ sức mạnh, thuyết pháp giữa đại chúng không có ǵ đáng lo sợ.

1. Chư pháp hiện đẳng giác vô uư (Phạm sarva-dharmābhisaṃbodhi-vaiśāradya): không hề sợ hăi hay do dự khi tự tuyên bố là đă chứng ngộ hết thảy pháp. Đối với tất cả các pháp, Phật đều rơ biết một cách tường tận. Do đó, đối với những chúng sinh v́ không biết về các pháp mà đặt câu hỏi th́ Ngài giải đáp một cách tự tại, không có ǵ sợ hăi. Điều vô uư này c̣n gọi là Nhất thiết trí vô sở uư.

2. Lậu vĩnh tận vô uư (Phạm sarvāsrava-kṣaya-jñāna-vaiśāradya): không hề sợ hăi hay do dự khi tuyên bố là biết rơ sự diệt tận hết thảy ô nhiễm. C̣n gọi là Lậu tận vô sở uư. Phật đă dứt sạch hết tất cả mọi phiền năo, không có sự sợ hăi từ các nạn bên ngoài.
3. Thuyết chướng pháp vô uư (antarāyika-dharmānanyathātva-niścita-vyākaraṇa-vaiśāradya): không hề sợ hăi, không mơ hồ, khi nói một cách dứt khoát những yếu tố ǵ cản trở sự chứng ngộ. Phật nói ‘pháp nhiễm ô chắc chắn gây trở ngại sự tu tập’. Khi nói như vậy, Phật không hề lo sợ sự bắt bẻ hay gạn hỏi của bất cứ ai. Điều này c̣n được gọi là Thuyết chướng đạo vô sở uư.

4. Thuyết xuất đạo vô uư (saṃpad-adhigamāya nairyāṇika-pratipat-tathātva-vaiśāradya): không sợ hăi khi công bố tính chân thật của sự thực hành dẫn đến sự chứng ngộ. Phật chỉ bày con đường thoát ly sinh tử, chỉ bày phương pháp tu tập để thoát ly khổ đau. Vô uư này c̣n được gọi là Thuyết tận khổ đạo vô sở uư, bởi Phật tuyên thuyết đạo xuất ly mà không sợ hăi điều ǵ.

Bốn điều Vô uư trên đây, căn cứ vào Thuận chính lư luận, quyển 75, th́ hai điều Vô uư trước là biểu hiện cho đức tính tự lợi của Phật, hai điều Vô uư sau là biểu hiện cho đức tính lợi tha của Phật. Trong đức tự lợi, điều thứ nhất gọi là Trí đức (thành tựu trí tuệ), điều thứ hai gọi là Đoạn đức (dứt hết phiền năo). Trong đức lợi tha, điều thứ nhất gọi là Linh tu đoạn đức (giúp chúng sinh tu tập đoạn trừ phiền năo), điều thứ hai là Linh tu trí đức (giúp chúng sinh tu tập thành tựu trí tuệ).

Theo Luận câu xá, quyển 27, th́: Chính đẳng giác vô uư lấy 10 trí (thế tục, pháp, loại, khổ, tập, diệt, đạo, tha tâm, tận, vô sinh trí - xem Thập trí) làm tính, tương đương với Xứ phi xứ trí lực trong 10 lực. Lậu vĩnh tận vô uư lấy 6 trí (trong 10 trí, trừ khổ, tập, đạo, tha tâm) làm tính, tương đương với Lậu tận trí lực. Thuyết chướng pháp vô uư lấy 8 trí (trừ diệt, đạo) làm tính, tương đương với Nghiệp dị thục trí lực. Thuyết xuất đạo vô sở uư lấy 9 trí (trừ diệt trí) làm tính, tương đương với Biến thú hành trí lực.

Ngoài ra, trong kinh luận của Tiểu thừa thường lấy bốn sự không sợ hăi này cùng với 10 lực, 3 niệm trụ, đại bi… làm thành 18 pháp bất cộng. Tuy nhiên, đại thể th́ cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa đều nói như nhau về Tứ vô sở uư của Phật.

B. Bốn vô sở uư của Bồ tát

Phạm Bodhisattvānāṃ catvāri vaiśāradyāni. Bồ tát cũng thành tựu đầy đủ trí tuệ, thuyết pháp giữa đại chúng cũng không có ǵ sợ hăi.

Theo luận Đaị trí độ và Đại thừa nghĩa chương, Tứ vô sở uư của Bồ tát là:

1. Năng tŕ vô sở uư: Bồ tát lắng nghe, ghi nhớ tất cả các pháp, không bao giờ quên mất, do đó, lúc ở giữa đại chúng thuyết pháp, không có ǵ sợ hăi.

2. Tri căn vô sở uư: Bồ tát biết tất cả căn cơ, tŕnh độ thông minh hoặc ngu tối của chúng sinh, tuỳ theo đối tượng mà thuyết pháp, không hề sợ hăi.

3. Quyết nghi vô sở uư: Bồ tát giải quyết tất cả mọi nghi ngờ của chúng sinh, đúng như pháp mà trả lời, không có ǵ sợ hăi.

4. Đáp báo vô sở uư: Tất cả những câu hỏi của chúng sinh, Bồ tát đúng như pháp trả lời tự tại, không có ǵ sợ hăi.

Tam đức lục vị              三德六味    
Căn cứ Kinh Đại bát niết bàn, khi Phật sắp nhập diệt, các Phật tử đă chuẩn bị rất nhiều phẩm vật để dâng lên cúng dường đức Phật và chư Tăng một lần sau cuối. Những thực phẩm rất phong phú, đặc biệt có đầy đủ ba đức tính và sáu hương vị. Từ sự kiện lịch sử này, đời sau, các chùa thường thiết lễ Cúng Ngọ và đọc câu 'ba đức, sáu vị; cúng Phật cùng tăng..."
- Ba đức: mềm, tinh khiết, đúng như pháp, tượng trưng cho ba thân của Phật (Pháp thân, Báo thân, Ứng hoá thân) hoặc ba đức tướng của quả vị Phật (Trí đức, Đoạn đức, Ân đức).
- Sáu vị: ngọt, đắng, chua, cay, mặn, nhạt, trong đó, vị chua là Khổ, mặn là Vô thường, đắng là Vô ngă, vị ngọt như Lạc, vị cay như Ngă, vị nhạt là Thường.

Tam vô lậu học      Trois disciplines     Three uncontaminated studies    三無漏學    Tisraḥ śikṣāh
Lậu có nghĩa là phiền năo. Tam vô lậu học có nghĩa là ba môn học giúp hành giả vượt thoát khỏi sự trói buộc của phiền năo, hoàn toàn được tự do, tự tại. Lậu c̣n có nghĩa là rơi rớt, v́ vậy, tam vô lậu học c̣n là phương tiện giúp hành giả không c̣n bị rơi rớt trong ba cơi, tâm không c̣n bị ràng buộc bởi mọi lậu hoặc, khổ đau. Đây là ba môn học đoạn trừ phiền năo, chứng nhập quả vị niết-bàn, giải thoát hoàn toàn; là ba môn học căn bản, nền tảng của hệ thống giáo lư Phật giáo mà nguyên thuỷ hay đại thừa đều nói đến, đó chính là Giới - Định - Tuệ.
- Giới vô lậu học. Trong kinh Tạp A-hàm, đức Thế Tôn định nghĩa: “Tỳ-kheo an trú trong pháp Ba-la-đề-mộc-xoa, đầy đủ oai nghi và tế hạnh, cẩn trọng sợ hăi ngay cả với những lỗi nhỏ nhặt, cho nên học và thọ tŕ đầy đủ các giới, như vậy gọi là giới vô lậu học”.
- Định vô lậu học. Kinh Trung A-hàm, đức Phật định nghĩa: “Tỳ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, có giác và quán (c̣n gọi là tầm và tứ), ly sanh hỷ lạc, chứng từ sơ thiền đến tứ thiền, gọi là định vô lậu học”.
- Tuệ vô lậu học. Đức Phật dạy: “Hiểu một cách đúng đắn về khổ thánh đế, tập thánh đế, diệt thánh đế và đạo thánh đế, như vậy gọi là tuệ học vô lậu”. Kinh Tương Ưng V cũng định nghĩa tuệ học vô lậu như là sự quán triệt và thấy biết “thế nào là khổ, nguồn gốc của khổ, sự diệt khổ và các phương pháp để diệt tận khổ”.
Kinh Phật Tự Thuyết th́ định nghĩa tuệ học chính là “sự hiểu rơ về giáo lư Nhân duyên hay Duyên khởi”. Theo đó, tuệ vô lậu là sự nhận thức được nguyên lư “do cái này có mặt nên cái kia có mặt. Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt. Do cái này sinh nên cái kia sinh. Do cái này diệt nên cái kia diệt”.

Tâm vương          mind-king    心王    caitta, caitasika
Vua tâm, tức chỉ cho chủ thể của 6 thức hoặc 8 thức.
Thuyết nhất thiết hữu bộ cho thể tính của 6 thức: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư là một, cho nên chủ trương Tâm vương chỉ một (chỉ có một Tâm mà thôi).
Tông Pháp tướng (Duy thức tông) th́ cho rằng 8 thức: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, mạt na (thức thứ 7), a lại da thức (thức thứ 8) đều có thể tính riêng, cho nên chủ trương có 8 loại Tâm vương.

Thí vô uư giả      Octroi-Courage, Donateur de Sécurité    bestower of fearlessness    施無畏者    abhaya-dāna
Danh diệu của Bồ tát Quán Thế Âm, người ban tặng sự không sợ hăi.

Vạn hạnh thiền sư      Maître Zen Van Hanh        萬行禪師    
Là tên một vị Thiền sư lớn của Việt Nam. Thiền sư họ Nguyễn, người châu Cổ Pháp, hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức (nay là làng Đ́nh Bảng, Thuận Thành, Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đ́nh đời đời tín Phật. Thuở nhỏ, ngài đă có tư chất khác thường, tinh thông Tam học, nghiên cứu trăm luận, xem thường công danh. Năm 21 tuổi, xuất gia với Thiền Ông ở chùa Lục Tổ. Sau khi thầy qua đời, Thiền sư dốc chí luyện tập môn Tổng tŕ Tam-muội, từ đó lời nào ngài nói ra cũng đều rất ứng nghiệm.

Hoàng đế Lê Đại Hành (980-1005) rất mực kính mộ Thiền sư, vua nhiều lần thỉnh ngài vào triều để bàn bạc quốc sự, tham vấn kế sách đối phó với giặc Tống ở phương Bắc cũng như giặc Chiêm Thành ở phía Nam. Thiền sư Vạn Hạnh chính là người đă dày công giáo dưỡng Lư Thái Tổ (1010-1028) ở trong chùa từ nhỏ, lúc vua c̣n là chú tiểu Lư Công Uẩn, theo nghĩa phụ Lư Khánh Văn đến chùa Tiêu Sơn học đạo.
Khi thấy Lê Long Đĩnh (1005-1009) bạo ngược, trăm họ sống trong cảnh lầm than, bấy giờ Lư Công Uẩn đang giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ nhà Lê, Thiền sư đă vận động quần thần trong triều suy tôn Lư Công Uẩn lên ngôi vua, sáng lập ra nhà Lư. Và về sau, cũng chính Thiền sư đă tham mưu cho Lư Thái Tổ trong việc dời đô, từ kinh đô Hoa Lư về Thăng Long, để tính kế phồn thịnh muôn đời cho dân tộc.
Ngày rằm tháng Năm năm Thuận Thiên thứ 16 (1025), khi công hạnh đă viên măn, Thiền sư gọi đồ chúng lại dặn ḍ: “Các con muốn đi đâu? Thầy không nương vào chỗ trụ để trụ, cũng không lấy chỗ vô trụ để trụ”. Rồi Thiền sư nói bài kệ:

身如電影有還無
萬物春榮秋又枯
任運盛衰無怖畏
盛衰如露草頭鋪

"Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”.

Dịch:
"Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi thu héo hon
Tùy vận thịnh suy không hăi sợ
Thịnh suy đầu cỏ có phơi sương".

Nói xong bài kệ, Thiền sư an nhiên thị tịch. Vua và sĩ thứ làm lễ trà tỳ, lượm cốt dựng tháp để thờ. Lư Nhân Tông thường có bài kệ truy tặng rằng:

"Vạn Hạnh dung ba cơi
Thật hiệp lời sấm xưa
Quê hương tên Cổ pháp
Chống gậy trấn kinh đô".

Vị định               味定    āsvādana-samādhi, āsvādana-samāpatti
Sự thưởng thức các vị ngọt của các Định, c̣n gọi là Vị đẳng chí. Vị đẳng chí, là khi Định có vị ngọt. Nghĩa là, hành giả đam mê trạng thái hỷ lạc của Định mà ḿnh chứng đắc, bị ngưng trệ trong đó, không tiến lên được.

Vọng tưởng      Illusion    forget thoughts, mistaken thought or conceptualization    妄想    vikalpa
Cũng gọi: Phân biệt, Vọng tưởng phân biệt, Hư vọng phân biệt, Vọng tưởng điên đảo.
Đồng nghĩa: Vọng niệm, Vọng chấp.
Tức phân biệt tướng các pháp với tâm hư vọng điên đảo, cũng có nghĩa là do tâm chấp trước nên không thấy biết được sự vật một cách như thật.

Kinh Lăng già quyển 2 nêu ra 12 thứ vọng tưởng như sau:
1. Ngôn thuyết vọng tưởng: Phân biệt các thứ âm thanh hát xướng, ngâm vịnh, chấp giữ và đắm say chúng, cho rằng chúng có tự tính.
2. Sở thuyết sự vọng tưởng: Những việc mà phàm phu nói ra, xét đến cùng chỗ tự tính của chúng th́ chỉ bậc Thánh mới biết chứ phàm phu không rơ; phàm phi chỉ nương vào các việc ấy mà phát sinh ra lời nói thôi.
3. Tướng vọng tưởng: Tuỳ việc mà khỏi lên cái thấy, đối với tất cả pháp tướng, tính toán, chấp trước một cách hư dối.
4. Lợi vọng tưởng: Đắm trước các thứ tài lợi ở thế gian, v́ không biết rằng những tài lợi ấy là hư dối, nên khởi tâm tham đắm.
5. Tự tính vọng tưởng: Chấp trước các pháp, khởi lên cái thấy có tự tính, rồi cho tự tính ấy là đúng, không phải tự tính ấy là sai.
6. Nhân vọng tưởng: Đối với các pháp do nhân duyên sinh, khởi lên kiến chấp có, không... vọng tưởng phân biệt mà h́nh thành cái nhân của sự sinh tử.
7. Kiến vọng tưởng: Đối với pháp 5 uẩn, sinh khởi các tà kiến chấp trước, phân biệt, có - không, một - khác...
8. Thành vọng tưởng: Đối với giả danh thực pháp, so đó cháp trước Ngă và Ngă sở mà khởi lên ngôn thuyết, thành Quyết định luận.
9. Sinh vọng tưởng: Vọng chấp tất cả pháp, hoặc có hoặc không, đều từ duyên khởi mà sinh phân biệt.
10. Bất sinh vọng tưởng: Vọng chấp tất cả pháp đều có sẵn tự thể, không nhờ nhân duyên mới sinh.
11. Tương tục vọng tưởng: Đối với tất cả các pháp, chấp trước chúng hệ thuộc lẫn nhau, nối tiếp lẫn nhau, không có gián đoạn.
12. Phược bất phược vọng tưởng: Đối với tất cả pháp, v́ t́nh sinh dính mắc, th́ thành trói buộc, nếu ĺa vọng tưởng th́ sẽ không bị trói buộc, phàm phu không rơ, cho nên ở trong chỗ không trói buộc, không cởi mà sinh chấp trước.

Vô ưu thụ              無憂樹    Aśoka
Cây Vô ưu, tức cây A-du-ca, tiếng Phạm là aśoka, tiếng Pāli là asoka: Thực vật họ đậu. C̣n được gọi là cây A-du-kha, A-thúc-ca.
Cây này có tên khoa học là Jonesia asoka. Thân cây thẳng đứng, lá giống lá hoè, hoa màu hồng, rất đẹp. Cây mọc nhiều ở vùng Hi-mă-lạp sơn, Tích lan, Mă lai…
Theo lịch sử Phật giáo, Đức Thích tôn đă đản sinh ở dưới gốc cây này. Kinh Quá khứ hiện tại nhân quả, quyển 1, ghi: “Phu nhân nh́n thấy trong vườn ngự có một cây lớn, tên là Vô ưu, hoa nở rất đẹp và mùi hương rất thơm, cành lá rất tươi tốt, Ngài bèn đưa tay phải lên định hái một đoá hoa, th́ Bồ tát từ từ đản sanh phía bên hông phải”.
Tham khảo thêm: Kinh Đại bát-niết-bàn, quyển 32; Luận Đại trí độ, quyển 10; Đại đường Tây vực kí, quyển 6; Phiên Phạm ngữ, quyển 9; Phiên dịch danh nghĩa tập, quyển 3…

Vô công dụng      Sans effort    Without effort    無功用    An-ābhoga
Hay Vô công, Phạn an-ābhoga, dịch ư là không cần dụng công nữa, tức là không cần phải tạo tác thêm nữa, v́ đă có tác dụng tự nhiên. Cũng có nghĩa là không cần mượn thân, khẩu, ư mà vẫn có thể nắm vững nguyên tắc của đạo một cách tự tại. Từ Bồ-tát Bát địa trở xuống, mặc dù ở trong cảnh giới Chân như, nhưng chưa được tự tại. Từ Bồ-tát Bát địa trở lên, v́ đă thuần khiết vô lậu, nên rất tự tại, gọi là Vô công dụng đạo. Lại nữa, từ Bát địa trở lên đă nắm vững Vô công dụng trí, tự tại lợi sanh, gọi là Vô công dụng địa. Tuy nhiên, nếu căn cứ quả vị Phật mà nói, th́ từ Bát địa trở lên vẫn c̣n thuộc Hữu công dụng, chỉ có quả vị Phật mới là Vô công dụng.


Trang : 1  2