Từ điển Phật học

Chủ trương
Thích Nguyên Lộc

Biên tập
Thích Nguyên Hùng
Viên Lợi
Tuệ Lạc


Chùa Vạn Hạnh
3 rue du Souvenir Français
44800 Saint Herblain
Email vanhanh@vanhanh.fr
Site http://www.vanhanh.fr

 Tìm theo chữ  

Tiếng Việt
Français
English
中文
Sankrit,Pali

 Tìm theo vần 
a b c e f g h i 
j k l m n o p q 
r s t u v w x y z 

 Tìm theo đề tài :
Phật và Bồ TátKinh tạngTên, địa danhTừ phật học

Song ngữ
VN-FRVN-ENVN-CHFR-VNFR-ENEN-VNEN-FR

Warning: mysql_close(): supplied argument is not a valid MySQL-Link resource in /mnt/130/sdb/a/3/chuavanhanh/script/function_base.php on line 23
A hàm      Agama    Agama    阿含    Āgama
A hàm có nghĩa là nơi quy tụ tất cả các pháp, là giáo thuyết được truyền thừa, tức là tuyển tập những lời dạy của đức Phật trong suốt 49 năm hoằng pháp của Ngài thành một hệ thống để truyền thừa cho thế hệ tương lai, nguyên thủy gồm có bốn bộ: Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và Tạp A Hàm.

Xem bài KHÁI QUÁT LỊCH SỬ H̀NH THÀNH VÀ TRUYỀN BÁ KINH A HÀM


A tỳ đạt ma      Doctrine suprême        阿毘達磨    Abhidharma
Luận tạng, chứa đựng lời dạy cuả đức Phật và các vị Thánh đệ tử mang tính chất nghị luận, hay sự nghiên cứu giáo pháp, phân tích ư nghĩa thâm sâu của Kinh.

Chú Đại Bi - Đại Bi Tâm Đà La Ni      Mantra de la Grande Compassion    Great Compassion Mantra    大悲咒    Maha Karunika citta Dharani
Theo kinh Mahakarunikacitta, bài chú này được Bồ tát Quán Thế Âm (Avalokiteśvara Bodhisatva) đọc trước một cuộc tập họp của các Phật, bồ tát, các thần và vương. Bài chú này thường được dùng để bảo vệ hoặc để làm thanh tịnh

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)
Thiên thủ thiên nhăn vô ngại đại bi tâm đà ra ni. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da. Nam Mô A rị da. Bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát toả. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn tŕ. Hê rị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đa (na ma bà tát đa). Na ma bà dà. Ma phạt đạt đậu. Đát điệt tha. Án. A bà lô hê. Lô ca đế. Ca la đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô kiết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da.Giá ra gía ra. Mạ. Mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê di hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê lị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ Bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn tŕ. Địa rị sắc ni na. Bà dạ ma na. Ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. Ta bà ha. Tất đà dủ nghệ. Thất bàn ra dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn tŕ. Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da. Ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn tŕ bàn đà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ. Ta bà ha. Nam mô hắt ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết đế. Thước bàn ra dạ. Ta bà ha.
Án. Tất điện đô. Mạn đa ra. Bạt đà dạ. Ta bà ha. (3 lần)

Kinh      Sûtra        經    Sūtra, Sutta)
Là tên gọi của các bài giảng của đức Phật.
Kinh ghi lại những ǵ chính đức Phật giảng dạy. Khởi đầu bộ kinh ta hay nghe câu “Tôi nghe như vầy…” (Như thị ngă văn 如是我聞, sa. evaṃ śrute mayā). Câu này tương truyền xuất phát từ A-nan-đà, một đệ tử của Phật. A-nan-đà là người có trí nhớ phi thường, đă thuật lại những lời Phật nói trong buổi Kết tập lần thứ nhất ngay sau khi Phật diệt độ. Sau câu này, thường thường kinh kể lại buổi nói chuyện đó gồm có người tham dự, nơi chốn, thời gian. Sau đó là những lời khai thị của Phật, có khi là những cuộc đối thoại sinh động. Thường thường lối hành văn của kinh giản đơn, dễ hiểu, có tính giáo khoa. Kinh hay lấy những thí dụ và so sánh, ẩn dụ. Có khi kinh nhắc lại quá đầy đủ các yếu tố trong bài giảng làm người đọc thấy rất trùng điệp. Mỗi một kinh là một bài riêng biệt, xử lí một vấn đề riêng biệt.
Các kinh độc lập quan trọng của Đại thừa là: Diệu pháp liên hoa kinh (sa. saddharmapuṇḍarīka), Nhập Lăng-già kinh (sa. laṅkāvatāra), Phổ diệu kinh (hay Thần thông du hí, sa. lalitavistara), Chính định vương kinh (sa. samādhirāja), Đại thừa vô lượng thọ trang nghiêm (sa. sukhāvatī-vyūha), Hiền kiếp kinh (sa. bhadrakalpika), Phạm vơng kinh (sa. brahmajāla), Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh (sa. buddhāvataṃsaka), Thắng Man kinh (sa. śrīmālādevī), A-di-đà kinh (sa. amitābha), Quán vô lượng thọ kinh (sa. amitāyurdhyāna), Duy-ma-cật sở thuyết (sa. vimalakīrti-nirdeśa), Thủ-lăng-nghiêm-tam-muội kinh (sa. śūraṅgama).

Kinh Đại Bát Nê Hoàn              大般泥洹經    Mahā-parinirvāṇa
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch, 6 quyển, được xếp vào Đại Chánh tạng ở quyển 12, kinh số 376, được gọi là kinh Đại Niết Bàn Nam bản.

Xem Kinh Đại Bát Nê Hoàn (dưới dạng PDF)


Kinh Diệu Pháp Liên Hoa      Sûtra du Lotus        妙法蓮華經    Saddharma-puṇḍarīka sūtra
Gồm 7 quyển, 28 phẩm, do ngài Kumārajīva dịch vào đời Hậu Tần, thu vào Đại tạng kinh tập 9. Là một trong những bộ kinh chủ yếu của Phật giáo Đại thừa.

Diệu pháp hàm ư là giáo pháp nói trong bộ kinh mầu nhiệm không ǵ hơn; Liên hoa kinh ví dụ kinh điển thanh khiết hoàn mĩ.

Kinh Lăng Nghiêm      Sûtra Surangama        楞嚴經    Śūraṃgama-sūtra
Gọi đủ là Đại Phật đỉnh Như Lai mật nhân tu chứng liễu nghĩa chư Bồ tát vạn hạnh Thủ lăng nghiêm kinh.

Kinh có 10 quyển, do sa môn Paramiti, người trung Thiên Trúc dịch vào đời Đường, được thu vào Đại tạng kinh, tập 19.

Thủ lăng nghiêm là tên của một loại thiền định mà đức Phật đă chứng được, cũng là tiếng gọi chung cho cả muôn hạnh.

Nội dung kinh này trước hết kể chuyện ngài A Nan ra ngoài thành khất thực, bị nàng Ma đăng già cám dỗ, mê hoặc đến nỗi gần mất giới thể. Đức Phật biết A Nan đang bị dâm thuật làm khốn, liền sai ngài Văn Thù Sư Lợi đem thần chú đến hộ tŕ. Sau khi Ngài A Nan trở về tinh xá, nàng Ma đăng già cũng theo đến. Khi ấy Đức Phật nói pháp chỉ dạy Ma đăng già và khiến nàng xuất gia học đạo. Phần nổi bật nhất trong kinh này là 25 pháp môn viên thông ở quyển 5, trong đó, pháp môn thứ 24 Bồ tát Đại Thế Chí tŕnh bày về pháp môn niệm Phật viên thông, rất thường được tông Tịnh độ dẫn chứng.

Kinh Lăng Nghiêm nói về các yếu chỉ của pháp Thiền, như: Khai thị tu thiền, Nhĩ căn viên thông, Ngũ uẩn ma cảnh,...

Kinh Phước Đức              福德經     Maha Mangala Sutta
Đây là những điều tôi được nghe hồi đức Thế Tôn c̣n cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đă vào khuya, có một vị thiên gỉa hiện xuống thăm người, hào quang và vẻ đẹp của thiên gỉa làm sáng cả vườn cây. Sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, vị thiên gỉa xin tham vấn Người bằng một bài kệ:

"Thiên và nhân thao thức
Muốn biết về phước đức
Để sống đời an lành
Xin Thế Tôn chỉ dạy."
(và sau đây là lời đức Thế Tôn:)

"Lánh xa kẻ xấu ác
Được thân cận người hiền
Tôn kính bậc đáng kính
Là phước đức lớn nhất

"Sống trong môi trường tốt
Được tạo tác nhân lành
Được đi trên đường chánh
Là phước đức lớn nhất

"Có học, có nghề hay
Biết hành tŕ giới luật
Biết nói lời ái ngữ
Là phước đức lớn nhất

"Được cung phụng mẹ cha
Yêu thương gia đ́nh ḿnh
Được hành nghề thích hợp
Là phước đức lớn nhất

"Sống ngay thẳng, bố thí,
Giúp quyến thuộc, thân bằng
Hành xử không tỳ vết
Là phước đức lớn nhất

"Tránh không làm điều ác
Không say sưa nghiện ngập
Tinh cần làm việc lành
Là phước đức lớn nhất

"Biết khiêm cung lễ độ
Tri túc và biết ơn
Không bỏ dịp học đạo
Là phước đức lớn nhất

"Biết kiên tŕ, phục thiện
Thân cận giới xuất gia
Dự pháp đàm học hỏi
Là phước đức lớn nhất

"Sống tinh cần,tỉnh thức
Học chân lư nhiệm mầu
Thực chứng được Niết Bàn
Là phước đức lớn nhất

"Chung đụng trong nhân gian
Tâm không hề lay chuyển
Phiền năo hết, an nhiên,
Là phước đức lớn nhất

"Ai sống được như thế
Đi đâu cũng an toàn
Tới đâu cũng vững mạnh
Phước đức của tự thân."

Kinh Pháp Cú      Les vers du Dharma        法句經    Dhammapāda Sutra
Bản kinh thu chép những bài kệ do Đức Phật nói trong các kinh mà biên tập thành.
Hiện có bốn bản khác nhau:
1. Bản tiếng Pāli: có 26 phẩm, 423 bài tụng.
2. Bản Ưu đà na, tiếng Phạm, do Pháp Cứu sưu tập, sa-môn Duy-ḱ-na, người Thiên Trúc dịch sang tiếng Hán (bản dịch tiếng Việt do Tỳ theo Thích Nguyên Hùng và Thích Đồng Ngộ hợp dịch), gồm 2 quyển, 39 phẩm, 752 bài tụng).
3. Bản dịch Tây Tạng
4. Kinh Pháp tập yếu tụng, 4 quyển, do ngài Thiên Tức Tai dịch vào đời Tống.
Kinh Pháp cú là tác phẩm phản ánh sự thể nghiệm sâu sắc, đầy đủ về đời sống thực tiễn của con người, là cuốn sách nhập môn hay nhất của Phật giáo.

Kinh Từ Bi          Metta Sutta    慈經    Mettā-sutta
Kinh Từ Bi, Mettàsuta, là một bài kinh ngắn trong một tập kinh ngắn thuộc kinh tập (Suttanipàta), thuộc Tiểu bộ kinh (Khudakanikàya), kinh tạng Pàli.
Đây là bản kinh duy nhất trong kinh tạng Nikàya đặc biệt giới thiệu một nếp sống hành Từ hạnh, một pháp hành Giới, Định, Tuệ mà đối tượng an trú tâm là ḷng Từ vô lượng. Nếu Kinh Kim Cương Bát Nhă, và nhiều kinh khác thuộc Nikayà và hệ Phát triển (Đại thừa) tập chú vào công phu hành thiền quán (vipassara) phát triển trí tuệ để cắt đứt các kiết sử, lậu hoặc, th́ kinh Từ Bi giới thiệu công phu tập chú phát triển niệm Từ với tâm tỉnh giác (có chánh kiến, trí tuệ) cũng sẽ dẫn đến thành tựu sự dập tắt được các ngă tướng, từ đó dập tắt các lậu hoặc, chấm dứt sinh tử, luân hồi.

Tăng nhất A hàm kinh      Les sutras des doctrines numériques     Increased by One Āgama Sutras    增一阿含經    Ekottarikāgama
Kinh Tăng nhất A-hàm, tiếng Phạn là Ekottarikāgama, gồm 51 quyển, do Cù-đàm Tăng-già-đề-bà (Saṃghadeva) dịch vào đời Đông Tấn (có lẽ trong khoảng thời gian 391-397 Tây lịch), hiện nằm trong ĐTK/ĐCTT, tập 2, số 125, trang 549-830. Các kinh từ số 126 đến 151 là các bản dịch lẻ tẻ thuộc Tăng nhất A-hàm. Bản tiếng Việt, Đại tạng kinh Việt Nam, kư hiệu A a4, HT. Thích Thanh Từ dịch, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành, trọn bộ 3 tập.
Về tên gọi của bổn kinh, theo Thiện Kiến Luật Tỳ-bà-sa quyển 1, Ngũ Phần Luật quyển 30, Tứ Phần Luật quyển 54… th́ do kinh này tập hợp các bài pháp thoại có nói đến pháp số, tuần tự sắp xếp từ 1 pháp đến 11 pháp, theo thứ tự tăng dần như vậy nên gọi là Tăng nhất. Tát-bà-đa tỳ-ni tỳ-bà-sa, quyển 1, c̣n cho rằng kinh này Đức Phật v́ chư thiên, người đời… tuỳ thời mà thuyết pháp. Thuyết này không được chính xác lắm!
Toàn kinh được phân thành 52 phẩm, tổng cộng 472 kinh. Mở đầu là phẩm Tự, tŕnh bày sơ lược diễn biến đại hội kết tập, A-nan tụng kinh, và nhân duyên A-nan truyền pháp cho Ưu-đa-la. Tiếp là các phẩm sắp xếp kinh thứ tự theo số pháp, từ 1 đến 11 pháp. 1 pháp có 13 phẩm, 2 pháp có 6 phẩm, 3 pháp có 4 phẩm, 4 pháp có 7 phẩm, 5 pháp có 5 phẩm, 6 pháp có 2 phẩm, 7 pháp có 3 phẩm, 8 pháp có 2 phẩm, 9 pháp có 2 phẩm, 10 pháp có 3 phẩm, 11 pháp có 4 phẩm. Trong đó, cứ sau mỗi kinh hay sau mỗi phẩm đều có bài tụng tóm tắt đại ư của mỗi kinh hay mỗi phẩm. Các bản Tăng nhất A-hàm của Tống, Nguyên, Minh đều ghi nhận có 52 phẩm, 50 quyển. C̣n trong Đại tạng của Cao Ly th́ kinh này có 50 phẩm, 51 quyển.
Về pháp số của kinh này, có hai thuyết. Thuyết thứ nhất cho rằng kinh này vốn có đến 100 pháp, sau v́ quên mất nên chỉ c̣n lại 10 pháp (theo Ma Ha Tăng Kỳ Luật quyển 32, A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa luận quyển 10, Hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự quyển 39...). Thuyết thứ hai căn cứ vào Ngũ Phần Luật quyển 30, Tứ Phần Luật quyển 54, Tuyển Tập Tam Tạng và Tạp Tạng Truyện, Phân Biệt Công Dức Luận quyển 2,... cho rằng kinh này thứ tự sắp xếp từ một đến 11 pháp, tổng cộng có 11 pháp. Thuyết này phù hợp với kinh Tăng nhất A-hàm hiện c̣n.
Trong năm bộ Nikāya, th́ kinh này tương đương với Tăng chi bộ (Aṅguttara- nikāya). Tăng chi bộ có 11 tụ, 171 phẩm, 2203 kinh, (nhưng con số này cũng chưa thống nhất), trong đó có 136 kinh tương đương hoặc có thể đối chiếu so với Tăng nhất A-hàm (theo The four Buddhist Àgamas in Chinese). Nhưng trong Phật quang đại tạng kinh, phần đề giải kinh Tăng nhất A-hàm cho biết có 153 kinh của Tăng nhất A-hàm tương đương hoặc gần tương đương với Tăng chi bộ.
Về sự truyền thừa, theo Luận phân biệt công đức, kinh này được truyền từ Nhất thiết hữu bộ. Dịch giả của kinh này xuất thân trong địa bàn truyền giáo của Nhất thiết hữu bộ, cho nên thuyết này cũng rất có lư. Nhưng kinh này lại mang đậm sắc thái Đại thừa, nên ngài Từ Ân cho rằng kinh này được truyền từ Đại chúng bộ. Theo học giả Lương Khải Siêu, kinh này do Nhất thiết hữu bộ truyền, sau đó được bổ sung bởi các bản của Đại chúng bộ.


Tạp A hàm kinh      Les sutras sur des sujets liés     Saṃyuktāgama    雜阿含經    Saṃyuktāgama
Tạp A-hàm, tiếng Phạn là Saṃyuktāgama, gồm 50 quyển, do Cầu-na-bạt-đà-la (Guṇabhadra, người Trung Ấn độ, 394~468 Tây lịch) dịch sang tiếng Hán vào đời Lưu Tống (435 Tây lịch), hiện được xếp vào ĐTK/ĐCTT, tập 2, kinh số 99, trang 1-303. Từ số 100-124 là các bản biệt dịch Tạp A-hàm. Bản tiếng Việt, Đại tạng kinh Việt Nam, kư hiệu A a3, HT. Thích Thiện Siêu, HT. Thích Thanh Từ dịch, nhà xuất bản Tôn giáo, trọn bộ 4 tập.
Theo Ngũ Phần Luật, quyển 30, Tứ Phần Luật quyển 54... cho rằng kinh này do Đức Phật nói cho nhiều đối tượng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thiên tử, Thiên nữ về các pháp Tứ thánh đế, Bát chính đạo, Thập nhị nhân duyên... biên tập thành một bộ, nên gọi là Tạp A-hàm. Ma Ha Tăng Kỳ Luật quyển 32, nói rằng kinh này văn cú phức tạp, cho nên gọi là Tạp A-hàm. Ngoài ra, Tát-bà-đa tỳ-ni tỳ-bà-sa quyển 1, nói kinh Tạp A-hàm xiển dương các loại thiền định, là pháp môn mà người tọa thiền phải học tập. Du Già Sư Dịa Luận quyển 85, th́ nói do tất cả mọi sự đều tương ưng với giáo, tập hợp tất cả nghĩa lư đó lại thành một bộ, gọi là Tạp A-hàm.
Căn cứ vào Đại chính tạng, kinh này có 50 quyển, 1362 kinh, nội dung tương đương với Tương ưng bộ (Saṃyutta-nikāya, gồm 5 tụ, 56 thiên, 203 phẩm, 2858 kinh) bản Pāli của Nam truyền Phật giáo. Đây là bộ kinh lớn nhất và cũng được h́nh thành sớm nhất trong bốn bộ A-hàm. Nếu phân loại theo tính chất, toàn kinh có thể chia thành ba bộ phận lớn.
1. Tu-đa-la (sūtra), nội dung gồm các kinh tŕnh bày về Uẩn, Xứ, Duyên khởi, Thực, Đế, Giới, Niệm, Trụ...
2. Kỳ-dạ (geya), là những kinh có lời vấn đáp được tŕnh bày bằng thể loại kệ tụng.
3. Kư thuyết (vyākaraṇa), những lời của Đức Phật và các đệ tử của Ngài thuyết.
Ba bộ phận trên đây tương đương với Sở thuyết, Sở vi thuyết, Năng thuyết được nói đến trong Du Già Sư Dịa Luận quyển 85.
Kinh Tạp A-hàm c̣n bảo tồn phong cách của Phật giáo nguyên thủy, tuy vẫn có những phần do đời sau thêm vào, nhưng hầu hết đều được thành lập vào thời kỳ rất sớm. Văn phong của kinh này rất đơn giản, câu cú rơ ràng, chứa đựng nhiều pháp môn tu hành rất thực tiễn. Chẳng hạn như các phẩm nói về Niệm trụ, Uẩn, Giới... Từ những đoạn đối đáp giữa Đức Phật và các đệ tử hiển hiện ra Tứ song, Bát bội, y vào Bát chúng mà nói "Chúng tương ưng", khiến cho hàng tại gia, xuất gia, nam nữ, lăo ấu, các đại đệ tử đều có thể lănh thọ được sự lợi ích của giáo pháp.
Có rất nhiều học giả cận đại nghiên cứu về bốn bộ A-hàm. Đầu tiên là các học giả Phương tây, sau đó là các học giả Nhật bản tiến bộ thêm một bước trong phương pháp luận cứu. Thành quả đạt được tuy rất to lớn, nhưng chủ yếu là văn bản Pāli, v́ họ cho rằng đó mới là ngôn ngữ thánh điển nguyên thủy. Các bộ Hán dịch A-hàm pho quyển quá nhiều, thiên chương trùng phức, từ ngữ mâu thuẫn, văn dịch vụng về, nên không được phổ cập. Sau khi các nhà nghiên cứu Phật học Trung quốc thời cận đại nhận thức được giá trị của kinh điển A-hàm mới bắt đầu có xu hướng khảo cứu tư tưởng A-hàm. Chẳng hạn như Tạp A-hàm, bản hiện nay do nội dung chưa hoàn chỉnh, thứ tự lộn lạo, thất lạc, kinh văn khó hiểu, cho nên các học giả cận đại mới chỉnh lư lại kinh này. Trước mắt, có 2 bản mới là kinh Tạp A-hàm do Phật Quang Sơn xuất bản và Tạp A-hàm kinh luận hội biên của Ấn Thuận. Bản Tạp A-hàm của Phật Quang Sơn sử dụng h́nh thức chấm câu mới và phân đoạn rơ ràng, chú trọng đối chiếu với các bản Pāli, Hán dịch cùng với các bản dị dịch khác, phân định lại thứ tự số quyển, ở mỗi kinh nhỏ đều có giải thích ư kinh, những chỗ kinh văn khó hiểu th́ cẩn thận chua thêm văn Pāli để đối chiếu hoặc dịch ra Trung văn (Bạch thoại). Ngoài ra, điểm đặc sắc của bản này c̣n được nh́n thấy qua cách hiệu đính nghiêm túc, chú giải rơ ràng, dẫn chứng đầy đủ. Tạp A-hàm kinh luận hội biên của ngài Ấn Thuận th́ lấy kinh Tạp A-hàm đối chiếu với Luận Du Già Sư Địa, đồng thời dùng phương pháp cổ lệ của Ấn độ để phân loại nội dung, mà không dùng cách phân quyển như các bản kinh Hán dịch truyền thống. Ấn Thuận hội biên Tạp A-hàm thành 7 phần 51 mục tương ưng.

Trường A hàm kinh      Les longs sutras     Longer Āgama-sutra    長阿含經    Dīrghāgama
Kinh Trường A-hàm, tiếng Phạn là Dīrghāgama, gồm 22 quyển, do Phật-đà-da-xá (Buddhayaśas, Tăng nhân nước Kế Tân, bắc Ấn Độ) và Trúc Phật Niệm (người Lương Châu, Cam Túc, Vũ Uy) dịch từ Phạn sang Hán vào đời Hậu Tần, niên hiệu Hoằng Thỷ thứ 15 (413 Tây lịch), hiện nằm trong Đại tạng kinh Đại chính tân tu (ĐTK/ĐCTT), tập 1, số 1, trang 1-149. Theo Luật Tứ Phần quyển 54, Luật Ngũ Phần quyển 30, Luận Du Già Sư Địa quyển 85 v.v… th́ kinh này tập hợp những bài pháp thoại dài của Đức Thế Tôn mà thành. Tát-bà-đa tỳ-ni tỳ-bà-sa (Sarvāstivāda vinaya vibhāṣā) quyển 1, cho rằng kinh này chuyên đả phá các ngoại đạo nên gọi là Trường A-hàm. Luận Phân Biệt Công Đức quyển 1, th́ giải thích, trường là tŕnh bày những sự việc xa xưa, trải qua nhiều kiếp. Đọc lại Trường A-hàm th́ biết rằng đây đúng là những bài pháp thoại rất dài, tŕnh bày nhiều vấn đề, nhiều ư nghĩa sâu xa, chứa đựng nhiều giáo lư căn bản…
Về sự truyền thừa của Trường A-hàm, theo Pháp Hoa Kinh Huyền Tán quyển 1, Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao Huyền Tán quyển 8… th́ bốn bộ A-hàm đều do Đại chúng bộ truyền. Nhưng Câu Xá Luận Kê Cổ quyển thượng, th́ cho rằng Trường A-hàm do Hoá Địa Bộ truyền. Theo các công tŕnh nghiên cứu của các học giả Nhật Bản thời hiện đại, th́ Trường A-hàm do Pháp Tạng Bộ (Dharmagupta) truyền. Thuyết này được nhiều công tŕnh nghiên cứu của các học giả trên thế giới đồng thuận.
Trong ĐTK/ĐCTT, từ số 2 đến 25 (gồm 57 quyển) là những bản Hán dịch lẻ tẻ (đơn bản) các kinh thuộc Truờng A-hàm. Đây là những bản kinh thuộc nhiều bộ phái khác nhau, do đó nội dung chứa đựng ít nhiều dị biệt. Trường A-hàm mà chúng tôi sẽ giới thiệu là bản Hán dịch Trường A-hàm kinh 22 quyển, do Phật-đà-da-xá tuyên đọc thuộc ḷng bản Phạn, và Trúc Phật Niệm truyền dịch sang Hán văn, Việt dịch do Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành, năm 1991, Đại tạng kinh Việt Nam, kư hiệu A a1, trọn bộ 2 tập. Bạn đọc có thể tham khảo thêm từ trang nhà phatviet.com bản Việt dịch của TT. Tuệ Sĩ.
22 quyển Trường A-hàm có 30 kinh, chia thành bốn phần. Phần một có 4 kinh, nói về sự tích của chư Phật và các vấn đề liên quan. Phần hai có 15 kinh, tŕnh bày các phương pháp, nguyên tắc tu tập và cương yếu giáo lư Phật thuyết. Phần ba có 10 kinh nói về các vấn nạn của ngoại đạo và những dị thuyết. Phần bốn có 01 kinh, chia thành 12 phẩm, nói về tướng trạng khởi nguyên của vũ trụ.
Kinh Trường A-hàm tương đương với kinh Trường bộ (Dīgha-nikāya) thuộc hệ thống kinh tạng Nam truyền. Kinh Trường bộ có 3 phẩm, tổng cộng 34 kinh, trong đó có 29 kinh tương đương với Trường A-hàm.

Trung A hàm kinh      Les sutras moyens     Middle Length Āgama Sutras    中阿含經    Madhyamāgama
Kinh Trung A-hàm, tiếng Phạn là Madhyamāgama, có 60 quyển, 222 kinh, do Tăng-già-đề-bà (Saṃghadeva, người nước Kế Tân, Bắc Ấn) và Tăng-già-la-xoa (Saṃgharakṣa, người nước Tu Lại, Tây Bắc Ấn) dịch từ Phạn sang Hán vào đời Đông Tấn, niên hiệu Long An thứ 2 (398 Tây lịch), hiện nằm trong ĐTK/ĐCTT, tập 1, số 26, trang 421-809. Các kinh từ số 27 đến 98 là các bản dịch lẻ tẻ (đơn bản) của các kinh thuộc Trung A-hàm. Bản tiếng Việt, Đại tạng kinh Việt Nam, kư hiệu A a2, Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang dịch, nhà xuất bản Tôn giáo, trọn bộ 4 tập. Chúng tôi dựa vào bản dịch của TT. Tuệ Sĩ để giới thiệu (Xem trên web phatviet.com).
Luận Phân Biệt Công Đức quyển 1, giải thích chữ trung có nghĩa là không lớn không nhỏ, không dài không ngắn, Trung A-hàm là tuyển tập những kinh không dài không ngắn. Đọc Trung A-hàm chúng ta thấy quả thật những kinh trong đây không dài như Trường A-hàm nhưng không ngắn chút nào!
Về sự truyền thừa và đối chiếu với kinh Trung bộ thuộc Nam tạng, xin xem luận án tiến sĩ của HT. Thích Minh Châu trong cuốn So sánh kinh Trung A-hàm chữ Hán và kinh Trung bộ chữ Pāli do Ni sư Trí Hải dịch. Ở đây, chúng tôi ghi nhận Trung A-hàm được truyền dịch từ Nhất thiết hữu bộ, bởi Tăng-già-la-xoa và Tăng-già-đề-bà đều là Đại luận sư của Hữu Bộ, mọi người đều biết. Đề-bà dịch Luận A-tỳ-đàm Bát Kiền-độ (Luận Phát Trí của Ca-chiên-diên) là sách trọng yếu nhất của Hữu Bộ, La-xoa dịch tiếp Luật Thập Tụng của ngài La-thập cũng là luật Hữu Bộ.
60 quyển Trung A-hàm chia thành 5 tụng, 18 phẩm. 5 tụng là Sơ tụng, Tiểu độ thành tụng, Niệm tụng, Phân biệt tụng và Hậu tụng. 18 phẩm gồm: 1, Phẩm bảy pháp, gồm 10 kinh; 2, Phẩm Nghiệp Tương Ưng, gồm 10 kinh; 3, Phẩm Xá-lê Tử Tương Ưng, 11 kinh; 4, Phẩm Vị Tằng Hữu Pháp, 10 kinh; 5 Phẩm Tập Tương Ưng, 16 kinh; 6, Phẩm Vương Tương Ưng, 14 kinh; 7, Phẩm Trường Thọ Vương, 15 kinh; 8, Phẩm Uế, 10 kinh; 9, Phẩm Nhân, 10 kinh; 10, Phẩm Lâm, 10 kinh; 11, Phẩm Đại, 25 kinh; 12, Phẩm Phạm Chí, 20 kinh; 13, Phẩm Căn Bản Phân Biệt, 10 kinh; 14, Phẩm Tâm, 10 kinh; 15, Phẩm Song, 10 kinh; 16, Phẩm Đại (Hậu tụng),10 kinh; 17; Phẩm Bổ-lợi-đa, 10 kinh; 18, Phẩm Lệ, 11 kinh.
Kinh này ghi lại nhiều bài pháp thoại của Đức Phật và các đệ tử của Ngài, thỉnh thỏang cũng có những lời giáo giới của Đức Phật cho các đệ tử, các bậc vương giả, cư sĩ và ngoại đạo.