Trang chủ En français Tin tức H́nh ảnh Thơ Văn Âm nhạc
Phật học thường thức
SANH TÂM VÔ TRÚ
Nguyên tác của Thích Tịnh Không
Việt dịch Thích Nguyên Hùng



21


Từ xưa đến nay, bất cứ làm việc ǵ, muốn thành công đ̣i hỏi con người ta phải có niềm tin. Pháp thế gian c̣n thế huống nữa là pháp Phật. Học Phật mà không có niềm tin, không thật ḷng th́ không có kết quả ǵ hết. Trong kinh đức Phật thường nói “tín là mẹ đẻ của công đức”. Tịnh độ tông rất xem trọng tín – nguyện – hạnh, v́ đây là ba điều kiện căn bản để có thể văng sanh Tịnh độ. Trong kinh Di Đà yếu giải, Ngẫu Ích đại sư nói rằng, không những phần chính văn của bản kinh tŕnh bày rơ ràng về tín – nguyện – hạnh, mà ngay phần tựa và phần lưu thông, cũng gồm đủ ba phần tín – nguyện – hạnh. Không chỉ kinh Di Đà, mà tất cả các kinh khác, phần mở đầu luôn luôn là phần xác định niềm tin (chứng tín phần). Do đó, phải biết rằng, tín là điều kiện quan trọng nhất trong sự nghiệp tu học và hoằng truyền Phật pháp. Người Trung Quốc thuở xưa thường nói, người nào không c̣n niềm tin th́ không có chỗ đứng trong xă hội, điều này chúng ta ai cũng biết. Cho nên, khi chúng ta tiếp xúc với ai hay làm bất cứ việc ǵ, đều nên xuất phát từ sự thành tín.

Cùng một đạo lư như vậy, chúng ta lấy trí tuệ để quán sát một sự việc, nếu là việc thiện, th́ đừng có tâm nghi ngờ, do dự, mà phải tranh thủ tận tâm tận lực làm liền. Pháp thế gian hay xuất thế gian, nói cho cùng cũng chỉ là một chuỗi dài nhân quả tương tục. Gieo nhân thiện nhất định được quả báo thiện. Gieo nhân xấu ác nhất định bị quả báo xấu ác. Vấn đề nhân – quả – quả – nhân vô cùng phức tạp. Cho nên, trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói, thế giới chúng sanh là ảnh tượng của một chuỗi dài vô lượng nhân duyên tiếp nối nhau. Nhân biến thành quả, quả lại biến thành nhân, nhân quả tuần hoàn, tương tục. Nếu bỏ đi nhân quả th́ chẳng c̣n pháp ǵ tồn tại. Chúng ta phải hiểu rơ đạo lư này, phải thấy được chân tướng sự thật này, th́ mới có khả năng thể hội được chân lư “vạn pháp vô thường, vạn pháp nhất như”.

Trong kinh điển Đại thừa đức Phật thường nói: “Tất cả các pháp, h́nh tướng th́ có, nhưng bản thể th́ không, nên không thể thủ đắc”. Những h́nh danh sắc tướng mà chúng ta đang thấy hiện hữu đây, thực ra chỉ là h́nh ảnh của một chuỗi dài nhân quả tương tục. H́nh ảnh đó tồn tại lâu hay mau c̣n tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố nhân duyên. Nhân duyên tương tục th́ quả báo tương tục. Ví dụ như nói về sự giàu có. Mỗi con người ai cũng muốn ḿnh được phát tài, ai cũng muốn ḿnh được giàu sang phú quư, nhưng trên thực tế, không ai có thể duy tŕ, nắm giữ tài sản của cải được măi măi, bởi v́ tất cả vạn pháp đều vô thường, không bền vững. Nhưng nếu muốn duy tŕ, giữ ǵn sản nghiệp giàu có một thời gian dài có được không? Câu trả lời là nhất định được, nhưng với điều kiện phải tiếp tục tu tập và gieo trồng cái nhân bố thí tài vật, th́ cái quả báo giàu sang phú quư mới không bị gián đoạn trong hiện đời.

Nếu như hiểu rơ đạo lư này th́ tất cả mọi sự lư trong cuộc đời chúng ta có thể suy nghiệm ra được hết. Nếu nhân duyên sai lạc th́ quả báo không thể hiện tiền, nó sẽ biến đổi. Đây là chân tướng của sự thật mà người ta gọi là chân lư. Chỉ có chư Phật và Bồ-tát mới thấy được sự thật chân tướng này một cách rơ ràng, triệt để, và v́ tất cả chúng sanh mà nói ra. Nếu chúng ta tin điều này một cách chân thành th́ có được rất nhiều phước đức. Phước từ đâu mà có? Từ bản thân chúng ta tu cái nhân thiện. Nhân thiện th́ quả báo sẽ tốt đẹp, đó là phước.

Từ đây chúng ta có thể biết được rằng, tất cả các pháp không có tướng đoạn diệt, chỉ có tướng tương tục, tướng biến hoá mà thôi. Đó là sự tương ưng giữa tánh và tướng, giữa thể và dụng. Bởi v́, thể là vĩnh hằng, bất sanh bất diệt, cho nên, cái tướng của nó hiện ra cũng không thể tiêu mất đi được. Tướng của nó chỉ có thể chuyển biến từ h́nh dạng này sang h́nh dạng khác, nó không tự mất đi. Một khi tướng trạng của mười pháp giới vắng mặt, th́ lập tức tướng của thế giới nhất chân hiện tiền. Đó là điều tốt nhất cho mọi chúng ta.

22


Có người nói rằng, học Phật nhất định phải hiểu rơ (cầu giải), mà muốn hiểu rơ th́ phải nghe nhiều (đa văn). Trong Tứ hoằng thệ nguyện có câu: “pháp môn không kể xiết, thệ nguyện đều tu học”. Câu nói này rất đúng. Nhưng cũng có người nói, học Phật không cần phải học nhiều, chỉ cần để trong tâm một danh hiệu Phật là đủ thành tựu. Câu nói này đúng hay không? Cũng đúng! Nhưng rốt cuộc chúng ta theo ai? Trong kinh Kim Cương có nói rất rơ rằng, đức Phật không những không có pháp nhất định để thuyết, mà c̣n nói đức Phật chưa từng thuyết pháp nữa! Bởi v́ không có pháp để thuyết, cho nên cả hai câu nói trên đều đúng cả.

Để trả lời cho câu hỏi chúng ta phải theo ai, trước hết chúng ta phải tự xem lại căn tánh của bản thân ḿnh, đồng thời phải xem lại hoàn cảnh sanh hoạt của ḿnh. Chúng ta học Phật v́ mục đích ǵ? Nếu như căn tánh ḿnh lanh lợi, thông minh, hoàn cảnh ít bị chướng ngại, có thầy lành, bạn tốt, th́ nên bắt đầu công việc học Phật bằng cách học rộng nghe nhiều. Ngược lại, nếu căn tánh ḿnh chậm lụt, hoàn cảnh khó khăn, gặp nhiều chướng ngại, th́ tốt nhất nên quyết định niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Sau khi văng sanh sang thế giới Tây phương Cực lạc rồi học rộng nghe nhiều cũng chưa muộn; sau đó lại phát nguyện sanh trở lại cơi Ta bà, rộng độ chúng sanh, đầy đủ đại nguyện. Do đó, hai câu nói đă nêu trên, câu nào cũng có đạo lư của nó.

Thành tựu chân thật của sự học Phật là được văng sanh. Văng sanh được kiến lập trên cơ sở tín – nguyện – hạnh. Mà niềm tin chân thật, chí nguyện thiết tha, siêng năng niệm Phật lại được kiến lập trên cơ sở “thâm hiểu nghĩa lư”. Do đó, mục đích của học rộng nghe nhiều là để thâm hiểu nghĩa lư, mà thọ tŕ sáu chữ hồng danh cũng là để thâm hiểu nghĩa lư. Người niệm Phật phải có đủ tín – nguyện – hạnh, tức là ba cái tư lương cần thiết nhất, th́ công phu mới đắc lực, mới quyết định văng sanh.

Chúng ta xem trong cuốn Niệm Phật luận, pháp sư Đạm Hư nói đến những người niệm Phật được văng sanh thời cận đại, có thể chứng minh rằng, họ bắt đầu tu tập không phải bằng con đường học rộng nghe nhiều, mà từ chỗ thâm nhập một pháp môn – chỉ cần một bộ kinh A-di-đà là đă thành tựu rồi. Cho nên, học một bộ kinh hay học nhiều bộ kinh điều đó không quan trọng, điều quan trọng nhất là phải hiểu được nghĩa lư của kinh. Điều đó cũng có nghĩa là, trong quá tŕnh tu tập đ̣i hỏi chúng ta phải thật ḷng, phải chân thật: niềm tin chân thật, chí nguyện chân thật, việc làm chân thật, và thật ḷng muốn văng sanh. Do đó, mọi việc quư nhất là ở chỗ chân thành. Người có ḷng chân thành th́ không việc ǵ là không thành tựu. Học rộng nghe nhiều mà không chân thành, không hiểu được nghĩa lư, th́ vẫn không thể nào thoát ra khỏi sanh tử trong tam giới. Đây là sự thật mà tất cả chúng ta không thể không biết, không thể không cảnh giác, ngàn vạn lần đừng để kiếp sống này trôi qua một cách vô ích. Trong kinh thường nói: “thân người khó được, Phật pháp khó nghe”, cho nên, niệm Phật cầu văng sanh Tịnh độ là pháp môn mà cổ nhân thường nói nhân duyên kỳ diệu từ vô lượng kiếp khó gặp mà nay được gặp. Xin đại chúng đồng tu hăy nỗ lực tinh tấn và trân trọng!

23


Kẻ phàm phu v́ chấp trước nên có lục đạo luân hồi, v́ vọng tưởng nên có mười pháp giới. Do đó có thể biết, mười pháp giới dù hiện ra cảnh giới y chánh trang nghiêm, thực chất cũng chỉ là ảo ảnh của một chuỗi dài nhân duyên quả báo tương tục sản sanh ra mà thôi. Điều này trong kinh đức Phật gọi là: duyên khởi tánh không. Do nhiều yếu tố, nhân duyên để từ nghiệp nhân tạo thành nghiệp quả, gọi là duyên khởi. V́ duyên khởi cho nên thật tướng của nó vốn không. Trong kinh đức Phật thường dùng những h́nh ảnh như giấc mộng, bọt sóng, giọt sương, ánh chớp để làm thí dụ cho sự tạm bợ, giả dối của cơi đời này. Những thí dụ đó thật vô cùng sâu sắc, sanh động và giúp chúng ta dễ dàng tiếp cận với chân lư. Ngày nay, khi xem truyền h́nh, nếu như chúng ta để tâm một chút, cũng có thể ngộ được chân tướng sự thật cuộc đời, tất cả đều giống như h́nh ảnh trong phim. Vậy mà chúng ta lại khởi tâm phân biệt, chấp thủ cho là thật có, rồi vui rồi buồn theo số phận của nhân vật trong phim! Thấy được chân tướng sự thật rồi, th́ sẽ không phân biệt chấp trước nữa, tự nhiên sẽ có khả năng “nh́n sâu, buông xả”.

Thế nhưng, sau khi nh́n sâu, buông xả rồi, không c̣n khởi tâm phân biệt chấp trước nữa, th́ những hiện tượng y chánh trang nghiêm trong mười pháp giới có c̣n tồn tại hay không? Vẫn c̣n tồn tại. Bởi v́ chỉ mới một ḿnh bạn buông xả thôi, c̣n những người khác th́ vẫn c̣n chấp trước, phân biệt; bạn không vọng tưởng điên đảo, nhưng người khác th́ vẫn c̣n vọng tưởng điên đảo. Điều này trong kinh gọi là “cộng nghiệp” và “biệt nghiệp”. Biệt nghiệp là nghiệp riêng của mỗi người. Một cá nhân tu tập chứng quả giải thoát, vượt ra khỏi sự trói buộc của sáu nẻo luân hồi trong ba cơi, chứng nhập pháp giới nhất chân. Nhưng chúng sanh có “nghiệp chung” với cá nhân ấy họ vẫn c̣n mê muội, điên đảo, tham luyến thế gian. Cho nên, hiện tượng sáu nẻo luân hồi, mười pháp giới vẫn c̣n tồn tại như cũ.

Trong kinh Hoa Nghiêm, ở đoạn cuối của phẩm Hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền, cũng có nói rất rơ hiện tượng này. Kinh nói: “Chúng sanh và phiền năo không bao giờ chấm dứt”. Tức là “nghiệp quả tương tục, không bao giờ chấm dứt”. Cho nên, sau khi Bồ-tát thành Phật phải giong lên cánh buồm từ bi, chèo thuyền trí tuệ qua lại trong ba cơi để cứu độ chúng sanh. Quư ngài đă từ cơi đời này mà giác ngộ, rồi phát nguyện trở lại để hoá độ chúng sanh, nên quư ngài hiểu rơ bản chất của cuộc đời như trong ḷng bàn tay. Quư ngài tự nguyện đến đây, nên đến đi rất tự tại, không bị trói buộc trong lục đạo, thập giới. Tuy quư ngài có thị hiện và thuyết pháp giữa cuộc đời, nhưng xem tất cả các Phật sự ấy như một giấc mộng lớn, như trăng dưới nước mà thôi. Từ h́nh ảnh Phật sự như trong mộng, đạo tràng như trăng dưới nước, chúng ta hiểu được nhân quả nghiệp báo của chư Phật và Bồ-tát đều như cảnh huyễn mộng, đó là điều mà chúng ta gọi là du hí thần thông.

Người học Phật nếu như không hiểu được đạo lư này, không hiểu được sự thật chân tướng của vũ trụ vạn hữu, th́ không có cái nh́n sâu sắc. Mà không có cái nh́n sâu sắc th́ khó mà buông xả được! Anh không thấy được sự thật cuộc đời mà kêu anh miễn cưỡng buông xả, thật tại là rất khó! Cho nên, nh́n sâu là phải từ nơi cái lư này mà nh́n, cũng tức là chân chánh hiểu rơ sự thật chân tướng của sáu nẻo luân hồi và mười pháp giới, hiểu rơ hiện tượng này chính là cái tướng tương tục của nghiệp nhân quả báo.

Trong Kinh Lăng nghiêm có nói, hiện tượng giới luôn luôn biến chuyển không dừng, và được đức Phật kết luận: “Sanh ngay nơi chỗ này mà cũng diệt ngay nơi chỗ này”. Do đó, chư Phật và Bồ-tát ứng hiện “tùy chúng sanh tâm, ưng sở tri lượng” (tuỳ theo tâm ước muốn của chúng sanh mà thị hiện). Từ câu kinh này chúng ta cũng có thể lănh hội được ư nghĩa của câu ‘tức phi thị danh’ (ngay nơi tên gọi ấy đă là không) trong Kinh Kim Cương. Đó chính là ư nghĩa ‘không làm mà làm, làm mà không làm’, hay ‘không nói mà nói, nói mà không nói’. Đây là chân tướng của chư Phật, Bồ-tát ứng thế. Chúng ta có thể lănh hội được điều này th́ phải nhận chân được vấn đề học tập của ḿnh. Trước hết phải đem những quan niệm, nhận thức sai lầm buông bỏ hết, thay đổi hết; đem những hành vi sai lầm sửa đổi lại cho đúng đắn, giống như chư Phật và Bồ tát đă ứng thế. Đó là chúng ta ‘chuyển thức thành trí, chuyển phàm thành thánh’. Cần phải thay đổi, thay đổi, chuyển hoá chính là tu, mà tu như vậy mới là tu học chân chánh, quả vị Vô thượng bồ-đề chắc chắn chứng được.

24


Đạo Phật là đạo giác ngộ. Học Phật là học làm người giác giác ngộ, làm người không mê hoặc, đó mới là sự học Phật chân chính. Giác ngộ bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ, thứ nhất tin sâu nhân quả, thứ hai thông đạt nhất tâm.

Thế nào là tin sâu nhân quả? Tin rằng có ba cơi, tin rằng có sáu nẻo luân hồi, tin rằng quả vị Phật có thể tu thành, tin rằng có cơi Tịnh độ có thể sanh về, tin rằng gieo nhân thiện sẽ gặt quả báo thiện, gieo nhân ác sẽ gặt quả báo ác, tin rằng nhân quả nghiệp báo không bao giờ chấp dứt. Tin như vậy gọi là tin sâu nhân quả. Nghĩa lư và cảnh giới của hai chữ nhân quả sâu rộng vô cùng. Nếu như có thể hiểu được một cách sáng suốt, có thể giác ngộ được lư nhân quả th́, mọi hiện tượng trong cuộc đời như giàu sang nghèo khó, tốt xấu, thọ yểu,… tự nhiên không c̣n nghi ngờ nữa. Một khi không c̣n nghi ngờ về định lư nhân quả, th́ chúng ta có thể xây dựng, kiến tạo một xă hội an lạc, hạnh phúc mỹ măn, chân thật. Cho nên, sự giác ngộ trong đạo Phật nhất định phải bắt đầu từ sự tin sâu vào lư nhân quả.

Người học Phật trước hết phải hành tŕ giới luật mà ḿnh đă thọ. Phải “nghiêm tŕ giới luật”, lời dạy này chúng ta phải hiểu cho thật rơ ràng và luôn đặt nó ở trong tâm để y theo đó mà phụng hành. “Tŕ giới” có nghĩa là tuân thủ giới pháp, bao gồm cả luật pháp thế gian. Luật pháp, đạo đức, phong tục tập quán… mỗi thời đại, mỗi quốc gia, mỗi địa phương đều khác nhau, cho nên “nhập gia phải tuỳ tục”. Có thể nói rằng, đời sống của chúng ta không thể tách rời khỏi đời sống xă hội. Xă hội có những quy ước, phép tắc của xă hội, chúng ta phải tôn trọng, tuân thủ, th́ mới có thể sống chung hoà hợp với nhau được.

Thế nào là thông đạt nhất tâm? Đó là tinh hoa của Phật pháp, cũng là chân tướng của nhân sanh và vũ trụ. Chúng ta phải đọc tụng kinh điển Đại thừa, thâm nhập nghĩa của nó th́ mới có khả năng hiểu rơ tất cả mọi sự mọi vật trong tận cùng thế gian và khắp cả pháp giới này đều không ra ngoài cái tâm. Chỉ cần thấu suốt được nhất tâm, chính như Lục tổ Tuệ Năng nói: “Tự tánh nó như thế nào? Vốn tự đầy đủ tất cả”. Tự tánh chính là nhất tâm. Một bộ kinh “Kim cương bát nhă ba la mật” là đem sự thông đạt nhất tâm ra mà hiển thị chứ không ǵ khác. Bộ kinh này thật thâm thuư, tu tập phải thể hội cái tâm vi tế này th́ mới có thể biết được rằng, trong cái tâm thanh tịnh vốn không có bồ đề để chứng, cũng không có tịnh độ để sanh. Ở trong cái vô sanh, vô chứng đó mà mở bày phương tiện trang nghiêm cơi Phật, nhưng thực chất đều như mộng, như huyễn, trong một sát na, thành Phật viên măn, độ sanh viên măn, đó là ư nghĩa của cái sự thông đạt nhất tâm. Cái nhân là ĺa khỏi nhất tâm này, mà chẳng khác nhân quả, nhưng một khi có thể thông đạt được nhất tâm, th́ không c̣n mê nhân quả. Cho nên, đă tin sâu nhân quả, lại c̣n có thể thông đạt nhất tâm, th́ có thể nhập vào trí Phật, đi vào cảnh giới Phật.

Trong kinh Kim cương nói: ly tứ tướng, ly tứ kiến. Ĺa tất cả pháp, ĺa không phải pháp, và ĺa cả chẳng phải pháp chẳng phải không pháp, mà thực hành bố thí. Bố thí như vậy chính là phương tiện trang nghiêm cơi Phật. Như vậy có nghĩa là không bám trụ và nhị biên có và không, nhất định được văng sanh tịnh độ và chắc chắn được thượng phẩm thượng sanh. Thế gian có không ít học giả, họ có trí tuệ, lại có phước báo, nhưng đối với các thứ trong cuộc đời cái tâm niệm tham muốn không bao giờ dừng, đó chính là cái chướng ngại cho sự tu tập pháp môn này, v́ vậy mà măi măi không có cách ǵ thoát khỏi luân hồi.
Chúng ta hăy quan sát cho thật kỹ càng cái nguyên nhân hiện tại của chúng ta, chúng ta thật sự chưa có thâm tín nhân quả, cũng không thông đạt nhất tâm, cho nên đương nhiên có chấp trước, đương nhiên có mê hoặc, và không thể giác ngộ được chân tướng của nhân sanh và vũ trụ. Đây là điều thật đáng lo ngại của chúng ta.

25


Ngày mồng 6 tháng 5, chúng tôi đă hiệu đính hoàn tất viên măn Kinh Đại thừa vô lượng thọ giảng kư. Lần hiệu đính này tốn rất nhiều thời gian, chúng tôi đem toàn bộ kinh văn ra xem xét kỹ càng, chỗ nào không ổn thoả th́ cải chính lại. Đối với người mới học Phật, đặc biệt là những người tu học theo pháp môn Tịnh độ, th́ trong cuốn kinh này đă chỉ dẫn, giảng dạy một cách rơ ràng tường tận về mọi vấn đề, từ lư luận, phương pháp cho đến nhân quả, cảnh giới, mọi việc đều được chỉ bày. Học thuộc, nghĩ sâu, y theo lời dạy trong kinh mà thực hành th́ quyết định gặt hái được lợi ích chân thật. Có thể nói, đây là một cống hiến nhỏ bé của chúng tôi cho Phật giáo hiện đại.

Trong kinh điển của Tịnh tông, xưa nay chư vị Đại đức đều khen ngợi Kinh vô lượng thọ, cho rằng kinh này là kinh quan trọng bậc nhất của Tịnh tông. Lần này hiệu chính lại một cách cẩn thận, thật t́nh mà nói, chẳng khác nào được giảng kinh thêm một lần nữa ! Trong khoảng mười năm nay chúng tôi đă từng giảng qua bộ kinh này chín lần, lần hiệu chính này có thể nói là lần giảng thứ mười. Chúng tôi tin tưởng rằng, ở trong nước cũng như ngoài nước, có không ít các bạn đồng tu đều có những kỷ niệm rất sâu sắc với bản kinh này, bởi đây là lần đầu tiên, bước chân mở đầu giai đoạn tu học Phật pháp của các bạn, và là bước khởi đầu tốt đẹp. Tuy nhiên, lợi ích của việc tu học có được nhiều hay ít không phải nằm ở chỗ nghe giảng kinh bao nhiêu lần, mà nằm ở chỗ chúng ta hiểu được bao nhiêu phần ư nghĩa thâm sâu của kinh và thọ tŕ được bao nhiêu phần. Thọ tŕ kinh điển có nghĩa là tin và hiểu, rồi ư theo lời dạy mà thực hành.

Học thuộc ḷng là bước khởi đầu, chuẩn bị cho sự thọ tŕ kinh điển. Sau khi học thuộc ḷng, bước quan trọng tiếp theo là lănh ngộ được nghĩa lư thâm sâu ở trong kinh. Nếu như chỉ có thuộc ḷng mà không hiểu được nghĩa lư trong kinh Phật nói cái ǵ th́ làm sao thực hành ? Cho nên, người học Phật nhất định phải ‘thâm giải nghĩa thú’, tức là phải hiểu được ư nghĩa thâm sâu và mục đích hướng đến của kinh điển, rồi sau đó phải đem nghĩa lư của kinh ứng dụng, thực hành trong đời sống hằng ngày. Chúng ta hiểu được bao nhiêu th́ thực hành bấy nhiêu, hiểu được một phần th́ thực hành một phần, hiểu được hai phần th́ thực hành hai phần. Tự bản thân chúng ta thực hành cho đàng hoàng, nghiêm túc, rồi mới giúp đỡ người khác lănh ngộ, giúp cho người khác cũng thực hành trong cuộc sống hằng ngày của họ giống như ḿnh. Thực hành như vậy gọi là ‘hành giải tương ưng’, tức là là hiểu và hành tương ưng với nhau. Hiểu và hành đi đôi với nhau th́ mới có thể bước tới cảnh giới giác ngộ, và như vậy, không những tương lai được văng sanh Tịnh độ mà ngay bây giờ, ngay trong cuộc sống hiện tại cũng đạt được trí tuệ chân thật, có được cuộc sống an vui hạnh phúc mỹ măn.

Trong những năm gần đây, chúng tôi có đề xướng cương mục tu học là phải giữ tâm: ‘chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi’. Nếu giữ tâm được như vậy th́ chắc chắn có được cái niềm vui thiền định là ‘nh́n sâu, buông xả, tự tại, tuỳ duyên, niệm Phật’. Đây chính là sự hưởng thụ lợi ích chân thật từ quá tŕnh tu học, nói như tiên sinh Phương Đông Mỹ là ‘sự hưởng thụ tối cao của đời người’. Nếu hiểu và hành không tương ưng với nhau, hiểu một đường làm một nẻo th́ không thể hưởng thụ được lợi ích này. Chỉ khi nào hiểu và hành đi đôi với nhau th́ mới khế nhập vào cảnh giới an lạc giải thoát.

Phật học thường thức

Vu Lan
Tịnh Độ
Phật pháp căn bản
Phật đản
Lời Phật dạy
Chuyện đời - Chuyện đạo


Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bảnện đạo TĂNG N

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời - Chuyện đN

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bảnaTE ULLAMBANA3;̐

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời -

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời - Chuy&#

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đ

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bảnện &

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản0;I XƯA841

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản0;I XƯA73;ạo#432;

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản0;I XƯ

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản0;I XƯA&#

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản Công

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời - Chuyện đạo
Website: http://chuavanhanh.free.fr
Email: chuavanhanh@free.fr