Trang chủ En français Tin tức H́nh ảnh Thơ Văn Âm nhạc
Phật học thường thức
Kinh Thiện Pháp nêu lên bảy pháp mà bất kỳ một Tỳ-kheo nào thành tựu cũng có an lạc, đem đến lợi ích cho mọi người. Kinh ghi: “Tỳ-kheo nào thành tựu bảy pháp tất được hoan hỷ an lạc trong pháp Hiền thánh, thẳng đến lậu tận”. Bảy pháp đó là biết pháp, biết nghĩa, biết thời, biết tiết độ, biết ḿnh, biết chúng hội và biết sự hơn kém của người.

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ hướng dẫn cách thực tập bảy pháp này cho người Phật tử tại gia.

1. Biết pháp

Biết pháp tức là biết thể loại của mười hai bộ kinh (Phạm: dvadasaṅga-buddha-vacana). Kinh ghi: “Thế nào gọi là Tỳ-kheo biết pháp? Nghĩa là Tỳ-kheo biết chánh kinh, ca vịnh, kư thuyết, kệ tha, nhân duyên, soạn lục, bản khởi, thử thuyết, sanh xứ, quảng giải, vị tằng hữu và thuyết nghĩa”.

Như vậy, pháp ở đây được hiểu là tất cả những lời Phật dạy được tŕnh bày, sắp xếp thành 12 loại, mà chúng ta quen gọi là “thập nhị bộ chân kinh”. Đức Phật đề nghị một vị Tỳ-kheo phải nắm vững 12 thể loại kinh điển này, như vậy mới được gọi là Tỳ-kheo biết pháp, ngược lại là không biết pháp. Tăng Nhất A-hàm (quyển 50) đề nghị chúng ta phải đọc tụng kinh pháp nếu muốn đạt được bổn nguyện, đồng thời c̣n đề nghị trong 12 bộ kinh ấy phải chọn lấy một kinh để hành tŕ tu tập.

Người Phật tử tại gia với cuộc sống gia duyên ràng buộc không có nhiều th́ giờ để học và biết hết tất cả Phật pháp, cho nên chỉ cần học và biết pháp mà Đức Phật đă dạy riêng cho người cư sĩ. Pháp ấy được ghi rơ trong KINH NGƯỜI ÁO TRẮNG, là kinh Đức Phật dạy cho cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác. Kinh ghi: “Này thầy Xá-lợi-phất, thầy có biết rằng nếu một vị đệ tử áo trắng đạo hạnh biết hộ tŕ năm giới pháp và tu tập bốn tâm cao đẹp (bốn tăng thượng tâm) th́ có thể đạt tới rất dễ dàng và không khó khăn ǵ khả năng an trú hạnh phúc ngay trong hiện tại, và biết chắc chắn rằng ḿnh sẽ không c̣n đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh và các nẻo ác khác trong tương lai?
Một người như thế là đă đắc quả Dự lưu, không sợ c̣n bị rơi vào đường ác, chắc chắn đang đi về nẻo chánh giác. Người ấy chỉ cần qua lại tối đa là bảy lần nữa trong các cơi trời và người là có thể đạt tới biên giới của sự hoàn toàn giải thoát diệt khổ.”

Như vậy, pháp của người Phật tử tại gia cần biết chỉ đơn giản là năm giới (không giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu) và bốn tâm vô thượng (từ, bi, hỷ, xả). Pháp này, như Đức Phật đă nói ở trên, rất dễ dàng thực tập và rất dễ dàng đưa tới hạnh phúc ngay trong hiện tại, thoát hẳn ba đường khổ và tương lai sẽ đạt được giải thoát hoàn toàn.

2. Biết nghĩa

Kinh điển là những lời chỉ dẫn để thực hành. Nếu tụng kinh mà không biết nghĩa th́ cũng vô ích. Tăng Nhất A-hàm nói: “Tuy tụng tập pháp ấy mà không hiểu nghĩa lư, do không quán sát nghĩa lư cũng không thuận theo pháp ấy nên pháp đáng tuân theo lại không tuân theo, pháp không đáng tuân theo lại tuân theo”. Như vậy, tai hại của việc không hiểu nghĩa lư kinh điển Phật nói cái ǵ là không biết phải hành tŕ thế nào; mà không biết hành tŕ th́ tự thân không có lợi lạc làm sao có thể hướng dẫn người khác tu học? Đó là chưa nói đến do không hiểu nghĩa lư kinh điển nên giảng giải sai lời Phật dạy, mang tội phỉ báng Tam bảo, c̣n gây nên tội phá kiến nữa. Cho nên, “phải biết nghĩa của giáo thuyết này hay giáo thuyết kia, biết điều này có nghĩa như thế kia, biết điều kia có nghĩa như thế này”. Nếu không hiểu phải lập tức thưa hỏi những bậc cao minh, những vị có kinh nghiệm tu chứng.

Đối với người Phật tử tại gia, chúng ta không nhất thiết phải biết hết tất cả các pháp và nghĩa như một thầy Tỳ-kheo. Dĩ nhiên, nếu có thể, người Phật tử cũng nên thành tựu pháp và nghĩa như một người xuất gia, điều đó rất có ư nghĩa. Nhưng nếu người tại gia học, hiểu pháp của người tại gia và ứng dụng chúng vào trong cuộc sống hằng ngày th́ đă có thể nâng cao vị thế xă hội và thành tựu sự nghiệp một cách chân chính, có thể giúp bản thân, gia đ́nh, xă hội vượt thoát những bế tắc, thiết lập một đời sống cân bằng, vững chăi và thảnh thơi.

Chẳng hạn, khi chúng ta học tập Phật pháp, chúng ta có hiểu biết chân chính những lời Phật dạy (biết pháp, biết nghĩa), chúng ta đem ứng dụng vào trong đời sống hằng ngày, như thực hành năm nguyên tắc đạo đức, th́ chắc chắn bản thân chúng ta sẽ có rất nhiều hạnh phúc. Nếu chúng ta hiểu đúng giáo lư Vô thường, Vô ngă… sẽ giúp chúng ta đối diện với những biến chuyển, đổi thay của cuộc đời. Nếu chúng ta thấy được tự tánh của các pháp, thành tựu được trí tuệ sắc bén, cứng rắn như kim cương (kim cương bát-nhă), chúng ta sẽ không bao giờ bị lung lạc trước những cạm bẫy của cuộc đời, và cũng không có khó khăn nào khuất phục được chúng ta. Thấy và hiểu được luật nhân quả, chúng ta sẽ biết điều nào nên làm, điều nào không nên làm. Biết sự sống không bao giờ chấm dứt (luân hồi), chúng ta sẽ không bao giờ sợ hăi trước cái chết, mà chỉ nỗ lực sống làm sao để đời sống của chúng ta ngày một trở nên cao đẹp hơn, hạnh phúc hơn… Đó là những pháp và nghĩa mà người tại gia đều có thể thực hành được trong đời sống trần tục của ḿnh.

3. Biết thời

Biết thời, theo lời Phật dạy, là biết lúc nào nên tu pháp thấp, lúc nào nên tu pháp cao, lúc nào nên tĩnh chỉ; biết lúc nào nên thuyết pháp, lúc nào nên pháp đàm, lúc nào nên tu tập, lúc nào nên thiền định. Đây là kỹ năng sắp xếp thời khóa tu học sao cho hợp lư, phân bố thời gian tụng kinh, niệm Phật, kinh hành, nghe pháp sao cho hài ḥa, thích hợp.
Không chỉ người tu mới cần sử dụng thời gian hợp lư, mà ai cũng phải biết sử dụng thời gian thích hợp để không hoang phí thời gian vào những việc vô ích và có hại cho sức khoẻ. Người đời thường không biết quư trọng thời gian, cứ để thời gian trôi qua một cách uổng phí, hoặc sử dụng thời gian cho những việc không đâu. V́ vậy, người Phật tử cần phải học cách sắp xếp thời gian cho thích hợp, giờ nào, việc ǵ, nên làm trước, nên làm sau… để công việc trôi chảy, hiệu quả và không mệt mỏi. Điều quan trọng là chúng ta phải biết dành thời gian để quán chiếu, đánh giá lại bản thân ḿnh; dành thời gian để chiêm nghiệm cuộc đời, để biết đâu là ư nghĩa đích thực của cuộc sống; và dành thời gian để chăm sóc bản thân, chăm sóc gia đ́nh…

Chúng ta cứ than thở không có thời gian, nhưng lại tiêu phí thời gian vào những chuyện không đâu, như xem truyền h́nh, hay đi hàng xóm ngồi nói chuyện trên trời dưới đất, hoặc lướt hết trang web này đến trang web khác để t́m kiếm thông tin, mà toàn là những thông tin làm cho ḿnh mệt, làm cho ḿnh nhức đầu và không giải quyết được ǵ hết. Trong khi đó chỉ cần một ngày mười lăm phút để ngồi thiền, để niệm Phật, để quán chiếu bản thân ḿnh… th́ đă đủ để giúp ḿnh bớt khổ đi nhiều lắm.

4. Biết tiết độ

Người xuất gia cũng phải ăn uống, ngủ nghỉ, nói năng… nhưng tất cả mọi hành vi cử chỉ sinh hoạt hằng ngày ấy đều được tiết độ, chừng mực và luôn trong trạng thái chánh niệm tĩnh giác, tức là thực hiện đời sống thiểu dục tri túc, (phải ‘tam thường bất túc’, tức đối với ba việc ăn, mặc, ngủ phải cực kỳ đơn giản, không nên quá tiện nghi, quá đầy đủ). Phật dạy: “Tỳ-kheo biết tiết độ là tiết độ trong việc ăn, uống, đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, im lặng, giảm bớt ngủ nghỉ, tu tập chánh trí”. Đây là bài pháp thoại không lời, mà ta gọi là thân giáo. Những sinh hoạt hằng ngày, từ cử chỉ hành động đến lời nói, có thể biểu hiện được sức tu tập của một người xuất gia. Do đó, bài học thân giáo là bài học có giá trị giáo dục cao cả và thâm thuư nhất mà chúng ta không thể t́m thấy ở ngôn ngữ văn tự, sách vở hay từ trường lớp mà có được. Chỉ điều này thôi cũng đủ tạo cho vị giảng sư một thế đứng trong ḷng thính chúng rồi.

Đối với người Phật tử tại gia, sự tiết độ trong sinh hoạt cuộc sống hằng ngày cũng vậy. Ăn uống, ngủ nghỉ, làm việc, giải trí, du lịch, mua sắm… tất cả đều cần phải có tiết độ th́ mới giữ ǵn được sức khỏe, mới đảm bảo được kinh tế gia đ́nh.

Tiết độ cũng có nghĩa là sống chừng mực, không quá cố gắng và cũng đừng quá lười biếng. Kinh Trung A-hàm có kể chuyện của thầy Soṇa, c̣n gọi là Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ. Trước khi đi tu, thầy Soṇa là một nhạc sĩ chuyên chơi đàn dương cầm, con nhà giàu có. Thầy đă cố gắng thuyết phục cha mẹ để được đi tu. Nhưng đi tu được một thời gian, với nỗ lực tinh tấn hết mức mà không đạt được giải thoát, thầy cảm thấy buồn và muốn hoàn tục. Thầy nghĩ ḿnh đi tu mà không thành công, thôi th́ về nhà làm cư sĩ, nhà ḿnh giàu có, ḿnh sẽ làm ăn để giàu thêm và đem tiền đến cúng dường Tam bảo, hộ tŕ chánh pháp cũng được rồi.

Một hôm, Đức Phật nghe thấy âm thanh thầy Soṇa tụng kinh, giọng rất buồn thảm, bằng tha tâm trí, Thế Tôn biết được ư nghĩ trong ḷng thầy Soṇa, Ngài cho người gọi thầy đến, và hỏi:

- Ngày trước, hồi chưa xuất gia, thầy là nhạc sĩ chuyên về đàn mười sáu dây, phải không?

- Bạch Thế Tôn, phải.

- Khi đánh đàn, nếu dây đàn chùng th́ sao?

- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn chùng th́ tiếng đàn chưa đúng mức.

- C̣n nếu dây quá căng?

-Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn quá căng th́ tiếng đàn biến thể và dây đàn có thể đứt.

- C̣n nếu dây đàn được lên vừa phải?

- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn được lên vừa phải th́ bản nhạc sẽ hay.

Đức Thế Tôn kết luận:

- Đúng như vậy đó, Soṇa! Giải đăi và lười biếng th́ đạo nghiệp không thành, mà cố gắng quá sức ḿnh th́ sẽ đưa tới sự mệt mỏi và thối chí. Soṇa! Thầy phải biết lượng sức ḿnh, đừng ép uổng thân và tâm quá mức, như vậy thầy mới mong thành tựu được đạo nghiệp.

Lănh thọ ví dụ ‘nghệ thuật lên dây đàn’ của Đức Phật dạy rồi, thầy Soṇa sống một ḿnh ở nơi xa vắng, giữ tâm thăng bằng, không buông lung, tu hành tinh tấn vừa sức, chẳng bao lâu, thầy chứng quả A la hán.

‘Giữ tâm thăng bằng’, như ‘dây đàn vừa phải’, là cả một gia sản Pháp bảo vô cùng quư báu mà Đức Thế Tôn đă để lại cho chúng ta.

5. Biết ḿnh

Đây là kỹ năng tự đánh giá. Đức Phật liệt kê một số tiêu chuẩn để các Tỳ-kheo tự đánh giá ḿnh, đó là: “Tỳ-kheo tự biết ḿnh có mức độ ấy tín, giới, thí, tuệ, biện tài, a-hàm và sở đắc”. Nói cách khác là chúng ta phải tự biết khả năng, năng lực của chính bản thân ḿnh, biết ḿnh có sở trường, sở đoản, chuyên môn… trong lĩnh vực nào để dấn thân phụng sự hiệu quả. Trong những tiêu chuẩn mà Đức Thế tôn đưa ra, điều nào chúng ta cũng thấy quan trọng và cần thiết phải “phản quan tự kỷ”, nhất là lănh vực a-hàm và sở đắc, tức là phải tự biết ḿnh am hiểu bao nhiêu kinh, luật, luận, có sở đắc được pháp nào hay không? Rồi phải biết ḿnh có biện tài hay không, tức là có năng khiếu thuyết giảng hay không.

Biết ḿnh, tâm lư học hiện đại gọi là khả năng tự ư thức, tự đánh giá. Ngành giáo dục nói chung, tâm lư học nói riêng, làm công việc giáo dục bắt đầu từ việc dạy một người chưa biết ư thức cho đến khi người đó biết ư thức, và mục đích cuối cùng của giáo dục là đào luyện thành công một người biết tự ư thức. Công việc giáo dục đó, Đức Phật dạy đơn giản hơn nhiều: ‘Này các Tỳ-kheo, các thầy hăy tự biết ḿnh’. Ḿnh c̣n không biết, không hiểu ḿnh th́ làm sao hiểu được người khác, việc khác?

Kinh Tạp A-hàm kể rằng, vào thuở quá khứ, có một Tiên nhân có biệt danh là Ngựa Đỏ, sau khi tu luyện được các phép thần thông, ông khởi lên ư nghĩ: ‘Nếu ta có thể nh́n thấy tận cùng biên tế của thế gian này th́ cũng có thể nh́n thấy tận cùng biên tế của sự khổ’. Nghĩ như vậy rồi ông liền thực hiện cuộc hành tŕnh đi t́m cái vô hạn. Một bước của ông, đi từ bờ bên này biển Đông đến bờ bên kia của biển Tây; với khoảng thời gian nhanh gấp bội tốc độ của một cung thủ siêu hạng bắn mũi tên xuyên qua cái bóng của một chiếc lá đa-la. Ông đi suốt, trừ khi ăn, khi ngủ, khi đại tiểu tiện. Ông đi suốt cả tuổi thọ của ḿnh, lâu không biết bao nhiêu: trăm năm hay chục ngh́n năm. Nhưng hết cả tuổi thọ, vẫn không nh́n thấy thấp thoáng đâu là biên tế cùng cực của thế giới.

Đó là câu chuyện quá khứ của một thiên thần, mà ông tự kể lại cho Phật nghe. Rồi ông tự kết luận: “Không thể bằng đôi chân mà đi đến tận cùng biên tế của sự khổ.”

Phật đồng ư, và nói: “Ta cũng không nói rằng, không đi đến tận cùng biên tế của thế giới này mà lại có thể đi đến tận cùng biên tế của sự khổ.” Rồi Ngài nói thêm: “Nhưng, chính ngay nơi cái thân có tưởng, có ư này, chỉ cao chừng một tầm này, Ta có thể chỉ cho thấy thế giới, thấy sự sinh khởi và diệt tận, cùng con đường dẫn đến sự diệt tận của thế giới”.

Thế giới vô lượng vô biên, từ khi sinh khởi cho đến khi diệt tận, tất cả đều biết một cách hoàn hảo, toàn diện từ sự nhận biết ḿnh.

6. Biết hội chúng

Là kỹ năng nắm bắt được thành phần, đối tượng thính pháp, đối tượng ḿnh tiếp xúc, hay nơi mà ḿnh đến, chỗ mà ḿnh ở… có những người xuất thân từ giai cấp, hoàn cảnh, tôn giáo, dân tộc nào để tùy thuận và có phương pháp giáo hóa thích hợp. Kinh ghi: “Tỳ-kheo biết đây là chúng hội Sát-lợi, đây là chúng Bà-la-môn, đây là chúng hội Cư sĩ, đây là chúng Sa-môn. Ở nơi các chúng hội ấy, ta nên đi như vậy, đứng như vậy, ngồi như vậy, nói như vậy, im lặng như vậy”.

Đây là một trong những yếu tố căn bản của Phật giáo mà các tôn giáo khác không có được. Đạo Phật không áp đặt niềm tin của tôn giáo ḿnh lên tín đồ của tôn giáo khác, cũng không đả phá, bôi nhọ hay thực hiện những cử chỉ, lời nói, hành động, nghi thức xúc pháp đến tín ngưỡng của tôn giáo khác. V́ vậy, nhà hoằng pháp phải trang bị cho ḿnh những kiến thức về tôn giáo cần và đủ để đi đến đâu ḿnh cũng có những văn hoá ứng xử thích hợp. Phải nên nhớ rằng trong quá khứ, thầy tổ của chúng ta đem Đạo Phật đi đến đâu cũng dễ dàng hội nhập, dễ dàng được chấp nhận. Lịch sử phát triển của Đạo Phật đă cho thấy rơ điều đó. Ở bất cứ quốc gia nào Đạo Phật đi tới đều trở thành một phần của nền văn minh, một nét đẹp của nền văn hoá, như thêm một loài đẹp vào trong vườn hoa, làm cho xứ sở đó trở nên đa dạng, phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc mà không hề khập khiểng, lai căn, dị dạng hay chống trái.

Người Phật tử sống trong xă hội, đi nhiều và tiếp xúc nhiều với cuộc sống, chắc chắn có cơi hội tiếp xúc với đủ mọi thành phần giai cấp, tôn giáo, dân tộc… cần phải trang bị cho ḿnh những hiểu biết cần thiết để ứng xử thích hợp.

7. Biết người

Biết người là kỹ năng nắm bắt được căn cơ tŕnh độ, tâm lư đối tượng ḿnh đang tiếp xúc. Kinh ghi: “Biết người là biết người hơn kẻ kém, người thắng kẻ liệt, người đáng được khen ngợi, kẻ đáng bị chỉ trích…”

Biết như vậy không phải để phân biệt đối xử, mà để biết cách dùng phương tiện giáo hóa thích hợp. Trong quá tŕnh giáo hóa, hướng dẫn một đoàn thể tu học, người hướng dẫn cần phải nắm rơ và hiểu rơ đối tượng ḿnh hướng dẫn, để có phương pháp giáo hóa thích hợp. Người đáng được khen cần phải khen ngợi để sách tấn, nhưng người đáng bị khiển trách cần phải khiển trách nghiêm khắc để răn đe. Nhưng quan trọng hơn hết, biết người là hiểu rơ được tâm tư, t́nh cảm, vướng mắc, khó khăn, khổ đau… của từng người, nhất là người tu tập, trong đời sống tâm linh có những vướng mắc và khó khăn ǵ để kịp thời hướng dẫn, giúp họ chuyển hóa.

Đối với Phật tử, Đức Phật đề nghị chúng ta phải biết có hai hạng người: hạng người có niềm tin và hạng người không có niềm tin. Người có niềm tin cần nuôi dưỡng, người không có niềm tin cần gieo trồng hạt giống niềm tin cho họ. Nhưng người có niềm tin cũng có hai hạng: thường đến gặp Tăng Ni và không thường đến gặp Tăng Ni. Người đến gặp Tăng Ni lại có hai hạng: có lễ kính và không lễ kính. Người có lễ kính lại có hai hạng: có thưa hỏi Phật pháp và không thưa hỏi Phật pháp. Có thưa hỏi Phật pháp lại có hai hạng: nhất tâm nghe giảng và không nhất tâm nghe giảng. Nhất tâm nghe giảng cũng có hai hạng: nghe rồi thọ tŕ và nghe rồi không thọ tŕ pháp. Thọ tŕ pháp cũng có hai hạng: pháp có quán sát nghĩa và pháp không quán sát nghĩa. Nghe pháp có quán sát nghĩa lại có hai hạng: biết pháp, biết nghĩa, hướng đến pháp tuỳ pháp, tuỳ pháp thuận, thực hành đúng như pháp; và hạng không biết pháp, không biết nghĩa, không hướng đến pháp tùy pháp, không tùy thuận pháp, không thực hành đúng như pháp. Hạng biết pháp, biết nghĩa, hướng đến pháp tùy pháp, tùy thuận pháp, thực hành như pháp lại có hai hạng: Tự làm ích lợi cho ḿnh và cũng làm ích lợi cho người khác, làm ích lợi cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa lợi và lợi, an ổn khoái lạc cho trời và người; và hạng không tự làm lợi ích cho ḿnh và cũng không làm lợi ích cho người, không xót thương thế gian, không cầu nghĩa lợi và lợi, không an ổn khoái lạc cho trời và người.

Nếu người nào tự làm lợi ích, cũng làm lợi ích cho người, làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa lợi và lợi, an ổn và khoái lạc cho trời người, người ấy là bậc nhất, là lớn, là trên, là tối cao, là hơn hết, là tôn quí, là tuyệt diệu giữa mọi người khác.

Tựu trung những điều trên là nói đến kỹ năng nhận biết một người Phật tử có bốn đức tính dự lưu hay không. Bốn đức tính đó là: thân cận thiện sĩ (gần gũi Tăng Ni), thính văn chánh pháp (tức nghe, học giáo lư), như lư tác ư (chiêm nghiệm, quán chiếu ư nghĩa của pháp) và pháp tuỳ pháp hành (ứng dụng Phật pháp vào cuộc sống). Nhận biết về một Phật tử như vậy không phải để rồi nghiêng về bên này bỏ bên kia, hay đề cao người này bôi xấu người kia… mà để có những phương pháp cụ thể để hướng dẫn cho họ tu tập, làm tăng thượng tâm cho người đă phát tâm và khiến cho người chưa phát tâm được phát tâm tu học.

Như vậy là bảy pháp, mà bất kỳ một ai, nếu thành tựu, đều được sống hoan hỷ và an lạc trong chánh pháp.

Mong rằng các Phật tử ai nấy đều thực tập thành công!

Phật học thường thức

Vu Lan
Tịnh Độ
Phật pháp căn bản
Phật đản
Lời Phật dạy
Chuyện đời - Chuyện đạo


Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bảnện đạo TĂNG N

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời - Chuyện đN

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bảnaTE ULLAMBANA3;̐

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời -

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời - Chuy&#

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đ

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bảnện &

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản0;I XƯA841

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản0;I XƯA73;ạo#432;

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản0;I XƯ

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản0;I XƯA&#

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản Công

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời - Chuyện đạo
Website: http://chuavanhanh.free.fr
Email: chuavanhanh@free.fr