|
Mạn arrogance identity 慢 Asmimāna |
|
Mạn, đọc từ tiếng Phạm māna, là một loại tâm sở (tác dụng của tâm gọi là tâm sở). Nó ám chỉ cái tâm tự măn, cao ngạo, khi nào cũng thấy ḿnh tài giỏi hơn người khác và tỏ ư coi thường người khác. Nó cùng một loại với ‘kiêu’, nhưng không thực sự tương đồng. ‘Kiêu’ là tự cho ḿnh xinh đẹp, có huyết thống cao quư, có học thức… hơn người khác và tỏ ư tự hào. Cùng một cách như vậy, nhưng ‘mạn’ là cái tâm vọng tưởng về chính bản thân ḿnh, tức ḿnh không đẹp, không giỏi, không cao quư… mà tự cho ḿnh như thế, nghĩ ḿnh ưu tú hơn người, khi nào cũng muốn khoe khoang, ngạo mạn.
Duy thức tông xếp ‘mạn’ vào một trong 6 tâm sở căn bản phiền năo. C̣n Câu xá tông xếp nó vào một trong các pháp bất định địa.
Người ta đă chia ‘mạn’ ra thành những tâm lư nhỏ hơn, vi tế hơn, thành 7 mạn, 8 mạn, 9 mạn.
Luận Đại thừa ngũ uẩn chia ‘mạn’ ra thành 7 loại: 1. mạn; 2. quá mạn; 3. mạn quá mạn; 4. ngă mạn; 5. tăng thượng mạn; 6. ti mạn; 7. tà mạn.
Luận Đại t́ bà sa quyển 43 và 50, luận Câu xá quyển 19, giải thích nội dung 7 mạn như sau:
1. Mạn: Đối với người kém hơn ḿnh, nghĩ ḿnh hơn họ; đối với người bằng ḿnh th́ nghĩ ḿnh bằng họ. Cái tâm lư này xem ra rất tự nhiên, không thể nói là xấu, thế nhưng, khi tâm lư này biểu hiện, nó thường có ư cao ngạo, v́ vậy mà không tốt.
2. Quá mạn: Đối với người bằng ḿnh, nghĩ ḿnh hơn họ; đối với người hơn ḿnh, nghĩ ḿnh bằng họ.
3. Mạn quá mạn: Đối với người hơn ḿnh, nghĩ họ thua ḿnh.
4. Ngă mạn: Cho năm uẩn là ta, của ta.
5. Tăng thượng mạn: Chưa chứng quả mà tự cho ḿnh đă chứng quả, chưa đoạn trừ hết phiền năo mà nói ḿnh đă hết phiền năo.
7. Tà mạn: Không có đức độ, lại buông lung làm việc ác, mà tự cho ḿnh có đức độ.
Những người nào có tâm mạn nói trên, nếu không theo học với bậc thiện tri thức, không hành đạo xuất ly, th́ không bao giờ thoát khỏi sinh tử luân hồi.
|
Warning: mysql_close(): supplied argument is not a valid MySQL-Link resource in /mnt/130/sdb/a/3/chuavanhanh/script/function_base.php on line 23
|