Trang chủ En français Tin tức H́nh ảnh Thơ Văn Âm nhạc
Kinh Bát Đại Nhân Giác
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ 6
(BỐ THÍ B̀NH ĐẲNG)


1, Chánh văn:

弟 六 覺 知 Đệ lục giác tri
貧 苦 多 怨 Bần khổ đa oán
橫 結 惡 緣 Hoạnh kiết ác duyên
菩 薩 布 施 Bồ-tát bố thí
等 念 冤 親 Đẳng niệm oán thân
不 念 舊 惡 Bất niệm cựu ác
不 憎 惡 人 Bất tắng ác nhơn

2, Dịch nghĩa:

Thứ sáu biết rằng
Nghèo khổ thường hay
Oán thán, trách móc
V́ vậy càng thêm
Kết tạo điều ác.
Bồ-tát bố thí
Oán thân đồng đều
Không nhớ thù xưa
Chẳng ghét người ác.


3, Giải thích:

Điều giác ngộ thứ sáu giải thích rơ ràng nguyên nhân của sự bần cùng, nghèo khổ, đó là do không thực hành bố thí. Và v́ vậy, để chấm dứt cái nhân nghèo khổ, bần cùng, Bát Đại Nhân Giác nêu cao hạnh bố thí ba-la-mật của hàng Bồ-tát.

Ông bà ḿnh thường nói “Bần cùng sinh đạo tặc”. Thật vậy, cái nghèo, cái khổ, cái bần cùng dễ làm cho người ta sinh tâm tham lam, dễ sinh tâm trộm cắp, sinh tâm bất măn, ganh tị, hận thù. Những người nghèo khổ thường mặc cảm với bạn bè, với xă hội, và v́ vậy hay sinh tâm oán hận, oán hận ông trời, oán hận cha mẹ, oán hận xă hội và oán hận cả bản thân ḿnh. Cái nghèo về vật chất đă vậy, mà cái nghèo về tri thức, về đạo đức cũng vậy. Nói như vậy không có nghĩa là quy trách nhiệm cho tầng lớp đói nghèo và thất học trong xă hội đều là thành phần bất hảo, không có đạo đức. Trong xă hội, nhất là xă hội Việt Nam, không ít những con người nghèo mà trong sạch, không có chữ nghĩa nhưng giàu ḷng nhân ái. Ở đây nói bần khổ đa oán, hoạnh kết ác duyên là nói chung, sống trong cảnh nghèo khổ bần cùng th́ hay sinh tâm oán hận, than trời trách đất và dễ vi phạm pháp luật, gây thêm nghiệp ác. Bởi vậy ông bà ḿnh mới khuyên “nghèo cho sạch, rách cho thơm”. Nghèo mà trong sạch, rách mà thơm tho, giữ được vậy là khó.

Nghèo nàn và lạc hậu là một mối nguy hại cho tất cả những quốc gia trên trế giới. Tất cả những bệnh tật, tệ nạn, bạo động, bất an… đều tập trung ở những nước chưa phát triển hoặc chậm phát triển. V́ vậy, những nhà lănh đạo quốc gia không ngừng nỗ lực để đưa đất nước ḿnh thoát khỏi cảnh nghèo nàn và lạc hậu. Đồng thời, cộng đồng thế giới, hiệp hội các nước phát triển trên thế giới cũng nỗ lực giúp đỡ để đưa những nước chậm phát triển thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu. Hồi đức Phật c̣n tại thế, Ngài cũng đă từng nêu lên thực trạng của một đất nước nghèo nàn, rằng: “Do nghèo khổ mà trộm cướp bạo hành, giết hại, dối trá tăng trưởng làm cho xă hội băng hoại” (Trường bộ kinh, Chuyển luân thánh vương sư tử hống). Từ đó, đức Phật khuyên các nhà lănh đạo đất nước nên dùng phương pháp này để mà trị dân: “Những người nào có khả năng về nông nghiệp và chăn nuôi hăy cung cấp cho họ hạt giống và thực vật, những người nào có khả năng về thương nghiệp hăy cung cấp cho họ vốn đầu tư, những người nào có học thức và khả năng lănh đạo hăy cho họ vật thực và lương bổng. Như vậy, người dân sẽ chuyên tâm vào những nghề riêng của ḿnh, họ không nhiễu hại đất nước. Và ngân quỹ quốc gia sẽ dồi dào, nhân dân an cư lạc nghiệp, không có tai ương, ách nạn và sống vui hoan hỷ” (Trường bộ kinh, Kutadanda). Ngày nay, nếu trong nỗ lực đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn và lạc hậu mà các nhà lănh đạo biết ứng dụng lời dạy này của đức Phật th́ hay biết mấy!

Trong quá tŕnh hành đạo, biết được nghèo nàn là một mối nguy hại, cho nên, đức Phật đă dạy các Phật tử phát nguyện thực hành hạnh bố thí để cho sự nghèo khổ giảm bớt áp lực, để cho tâm tư của người nghèo được an ổn và để cho xă hội được b́nh an, thịnh vượng. Hơn thế nữa, bố thí là phương pháp duy nhất để chấm dứt cái nhân của sự nghèo khổ, là phương tiện để hoàn thành Bồ-tát đạo.

Bố thí th́ có nhiều cách và ai cũng có thể bố thí được. Chẳng hạn, người có tiền của, vật chất th́ bố thí tiền của vật chất; người có trí tuệ th́ bố thí sự hiểu biết… Ngoài ra, chúng ta không giết hại là bố thí sự sống và không sợ hăi (vô uư thí), không trộm cắp là bố thí tài vật và sự công bằng, không dâm dục là bố thí hạnh phúc và t́nh thương, không nói láo là bố thí niềm tin và sự cảm thông, không uống rượu là bố thí sự b́nh yên và trật tự xă hội… Sự bố thí như vậy th́ ai cũng có thể bố thí được.

Mục đích cứu cánh của sự bố thí là tiêu trừ những tư tưởng ích kỷ, xấu xa, và phát triển những tư tưởng vị tha, trong sạch. Bố thí là một niềm hân hoan, một phước lành cho cả người cho lẫn người nhận. V́ vậy, khi thực hành bố thí, Bồ-tát không thắc mắc t́m hiểu người mà ḿnh muốn cho sự vật, hoặc ban một đặc ân, có ở trong t́nh trạng thiếu thốn món đó không. Bồ-tát cho ra mà không chạy theo vật ḿnh cho. Cái đó được gọi là:

Đẳng niệm oán thân
Bất niệm cựu ác
Bất tắng ác nhân.


Bồ-tát bố thí v́ ḷng quảng đại mà cũng là để diệt trừ mọi luyến ái c̣n tiềm tàng trong tâm. Khi bố thí, Bồ-tát không hề lộ vẻ quan trọng hoặc tỏ ư tự tôn tự đại, trái lại, thấy đó là một cơ hội quư báu để làm bổn phận ḿnh nên sẵn sàng và vui vẻ phục vụ kẻ khác một cách khiêm tốn. Bồ-tát không bao giờ thấy ḿnh cao hơn ai v́ lẽ người đó nhờ ḿnh, không bao giờ thấy ḿnh thi ân và người được giúp đỡ đă thọ ân ḿnh, không t́m danh vọng, không mong đến đáp. Đó là sự bố thí chân chính. Ngoài ra, mọi cách thức bố thí khác, như bố thí v́ danh, v́ lợi, v́ mong cầu một điều ǵ đó đều không phải là sự bố thí chân chính. Hay nói cách khác, bố th́ mà c̣n ư niệm có người cho và người nhận, c̣n có ư niệm thi ân và thọ ân, c̣n có tâm phân biệt, c̣n có tâm mong cầu… đều là sự bố thí không đúng chánh pháp. Sự bố thí ấy chỉ làm tăng thêm phiền năo, và do vậy, không có phước báo ǵ cả.

Thực tế, khi thực hành hạnh bố thí, con người khó thoát ra khỏi ư niệm ḿnh là người thi ân và có người thọ ân. Luận Đại Trí Độ có nói: “Hàng ngu si bố thí mà không hiểu ǵ; hoặc v́ cầu tài nên bố thí, v́ sợ hiềm trách nên bố thí, hoặc sợ sệt nên bố thí, hoặc v́ muốn cầu ư người nên bố thí, hoặc sợ chết nên bố thí, hoặc dối người làm cho họ mừng nên bố thí, hoặc tự cho ḿnh giàu nên bố thí, hoặc tranh hơn nên bố thí, hoặc ganh ghét sân si nên bố thí, hoặc kiêu ngạo tự cao nên bố thí, hoặc v́ danh dự nên bố thí, hoặc v́ chú nguyện nên bố thí, hoặc v́ giải trừ suy hoại cầu tốt lành nên bố th́, hoặc v́ qui tụ đông người nên bố thí. Cách bố thí như vậy gọi là bố thí không thanh tịnh”. Sự bố thí như vậy gọi là bố thí không thanh tịnh, không đúng chánh pháp và dĩ nhiên không có phước báo ǵ cả. Điều đó gợi cho chúng ta nhớ câu chuyện lịch sử giữa Tổ Bồ-đề Đạt-ma với vua Lương Vũ Đế. Lương Vũ Đế là người thâm tín Phật pháp, đúc chuông, tạo tượng, xây dựng chùa tháp, bảo trợ Tăng ni tu học khắp nước, nhưng Bồ-đề Đạt-ma nói làm như vậy không có phước báo ǵ cả? Chúng ta đă biết được nguyên do v́ sao.

Như vậy, việc bố thí phải dựa trên nguyên tắc, như kinh Kim Cang nói rơ, là Không – Vô tướng – Vô nguyện:

Bồ-tát không nên
trú ở đâu cả
mà làm bố thí:
không ở nơi sắc
mà làm bố thí,
không ở nơi thanh,
hương, vị, xúc, pháp,
mà làm bố thí.


Và sự bố thí như thế th́:

v́ nếu Bồ-tát
không ở đâu cả
mà làm bố thí
th́ được phước đức
không thể lường được.


Đó là sự bố thí thanh tịnh, và đó là điều mà Bát Đại Nhân Giác muốn nói đến.

Tuy nhiên, bố thí một cách b́nh đẳng, không phân biệt người thân, kẻ thù, không ghét bỏ người ác; bố thí theo tinh thần, theo nguyên tắc Vô tướng, Vô nguyện, Vô chấp không có nghĩa là nhắm mắt cho càn. Điều đó trái với tinh thần trí tuệ của đạo Phật. Khi giúp đỡ một người ác, người Phật tử không có tâm ghét bỏ, phân biệt đối xử với người đó, nhưng hoàn toàn không có nghĩa là tạo điều kiện cho người đó tiếp tục làm việc ác. Ngược lại, người Phật tử t́m mọi biện pháp và bằng t́nh thương của ḿnh, giúp đỡ người đó cải tạo cuộc sống, hướng đến con đường thánh thiện. Đó là một sự bố thí cao thượng.

4. Kết luận:

Bố thí là một trong sáu pháp Ba-la-mật mà Bồ-tát nương theo đó tu tập để độ thoát chúng sinh, chứng thành Vô thượng giác. Thực hành bố thí viên măn hành giả sẽ thành tựu cả hai mặt phước đức và trí tuệ.

Phước đức có được là do chúng ta thực hành bố thí đă đem đến niềm vui cho kẻ khác. Trí tuệ có được là do trong quá tŕnh bố thí chúng ta đă quán chiếu đến sự b́nh đẳng, vô phân biệt. Thành tựu phước đức nhờ vào sự bố thí bằng cách đem niềm vui đến cho người khác th́ ai cũng có thể thực hành được. V́ trong cuộc sống, chỉ bằng một ánh mắt, nụ cười, lời nói dễ thương… là chúng ta đă ban phát được rất nhiều niềm vui rồi!

Mong rằng tất cả chúng sinh mỗi ngày đều thực hành được công hạnh này. Như vậy cuộc đời sẽ giảm bớt sự căng thẳng và cuộc sống sẽ an vui biết bao!

Bài 7

Trọn bộ 6 quyển
Quyển hạ
Quyển 6
Quyển 5
Quyển 4
Quyển 3
Quyển 2
Quyển 1
Phẩm XXVI - PHẨM BÀ LA MÔN- VERSETS SUR LE BRAHMANE
Phẩm XXV - PHẨM TỲ KHEO- VERSETS SUR LE BHIKKOU
Phẩm XXIV - PHẨM THAM ÁI - VERSETS SUR LA SOIF
Phẩm XXIII - PHẨM VOI RỪNG
Phẩm XXII - PHẨM ĐỊA NGỤC
Phẩm XXI - PHẨM TẠP LỤC
Phẩm XX - PHẨM CHÁNH ĐẠO
Phẩm XVIII - PHẨM CẤU UẾ
Phẩm XVII - PHẨM PHẪN NỘ
Phẩm XVI
Phẩm XV
Phẩm XIX - Phẩm Pháp Trụ
Phẩm XIV
Phẩm XIII
Phẩm Tinh Cần
Phẩm song yếu
PHẨM TÂM Ư - CITTA VAGGA - MIND
PHẨM TỰ NGĂ - ATTA VAGGA - THE SELF
PHẨM NGU SI - BĀLA VAGGA
PHẨM NGÀN - SAHASSA VAGGA
PHẨM HOA HƯƠNG - VERSET SUR LES FLEURS
PHẨM HIỀN TRÍ - PANDITA VAGGA
PHẨM GIÀ YẾU - JARAA VAGGA
PHẨM ÁC - PAAPA VAGGA
PHẨM A-LA-HÁN - ARAHANTA VAGGA
PHẨM ĐAO TRƯỢNG - DANDA VAGGA
Phần 3
Phần 2
Phần 1
KINH TẠP A HÀM
Bài 9
Bài 8
Bài 6
Bài 5
Bài 4
Bài 3
Bài 2
Bài 10
Bài 1


KINH TẠP A-HÀM

Kinh Pháp cú

Kinh Pháp cú

Kinh Pháp cú

Kinh Bát Đại Nhân Giác

YẾU GIẢI KINH A DI ĐÀ

Kinh Pháp cú

Kinh Pháp cú

Kinh Pháp cú

Kinh Bát Đại Nhân Giác

Kinh Pháp cú

Kinh Pháp cú

Kinh Pháp cú

Kinh Bát Đại Nhân Giác

Kinh Pháp cú
Website: http://chuavanhanh.free.fr
Email: chuavanhanh@free.fr