Trang chủ En français Tin tức H́nh ảnh Thơ Văn Âm nhạc
Kinh Bát Đại Nhân Giác
ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ TƯ
(THƯỜNG HÀNH TINH TẤN)


1. Chánh văn:

弟 四 覺 知 Đệ tứ giác tri
懈 怠 墮 落 Giải đăi đoạ lạc
常 行 精 進 Thường hành tinh tấn
破 煩 惱 惡 Phá phiền năo ác
崔 伏 四 魔 Tồi phục tứ ma
出 陰 界 獄 Xuất ấm giới ngục.

2. Dịch nghĩa:

Thứ tư biết rằng:
Lười biếng hư hỏng.
Thường tu tinh tiến
Phá các phiền năo
Dẹp hết bốn ma
Thoát ngục ấm, giới.

3. Giải thích:

Giải đăi là lười biếng. Lười biếng trong nhà Phật có nghĩa là không siêng năng làm điều thiện, hoặc làm nhưng không đến nơi đến chốn, làm nửa vời… Đoạ lạc là rơi xuống chỗ thấp kém, hèn hạ của phàm phu, rơi xuống những nẻo đường xấu ác, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh… Ưa thích khoái lạc, ngủ nghỉ, hay trông cậy vào kẻ khác, không ư thức được đau khổ của sinh tử luân hồi, đều là nguyên nhân của giải đăi, lười biếng.

Phải biết rằng, những bậc vĩ nhân trên thế giới không phải ai cũng thần đồng, thiên tài, mà phần lớn đều là những người siêng năng, miệt mài, chăm chỉ học hành, biết nhẫn nại, vượt qua khó khăn, thử thách. Ở trong đạo, đức tính siêng năng, tinh tấn đ̣i hỏi phải hơn thế nữa. Siêng năng, tinh tấn là yếu tố quyết định cho sự thành công hay thất bại. Kết quả tu tập sẽ đạt được nhanh hay chậm đều tuỳ thuộc vào khả năng hành tŕ của chúng ta nhiều hay ít, siêng năng hay biếng nhác.

Trong ba điều giác ngộ mà chúng ta đă t́m hiểu trước, th́ điều giác ngộ thứ nhất cho chúng ta một nhận thức đúng đắn về bản chất của thế giới và con người, điều thứ hai cho chúng ta biết nguồn gốc của khổ đau là tham dục, và điều thứ ba là phương pháp sống không sa hoa, không tiêu cực, giữ mức trung đạo, an trú trong hiện tại (tri túc), lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Ba điều ấy là những vốn liếng, những tư lương căn bản cho chúng ta lên đường t́m về bảo sở. Và đến điều thứ tư này, cảnh giác cho chúng ta biết rằng, đối với ba điều giác ngộ trước đó có giá trị hay không, có giúp ích ǵ cho đời sống của chúng ta hay không, đều tuỳ thuộc vào chính bản thân ḿnh có dấn thân hành tŕ hay không, đặc biệt nhấn mạnh sự dấn thân thực hiện mục đích, lư tưởng giác ngộ giải thoát đ̣i hỏi phải thường xuyên nỗ lực, tinh tấn, nếu không sẽ chẳng có kết quả ǵ.

Siêng năng tinh tấn trong nhà Phật có bốn phương diện, gọi là Tứ chánh cần hay Tứ ư đoạn:

- Một là cần cù tinh tấn để đoạn trừ những điều xấu ác đă sinh, không cho nó phát triển.

- Hai là cần cù tinh tấn đoạn trừ điều ác chưa sinh, tức những ư niệm ác đang c̣n ẩn nấp bên trong tiềm thức, dưới dạng chủng tử, khiến cho nó không được phát triển.

- Ba là nỗ lực tinh tấn để phát huy, khơi dậy những điều thiện, những đức tính tốt, những hạt giống tốt chưa được biểu hiện, làm cho nó biểu hiện.

- Bốn là nỗ lực tinh tấn làm cho những điều thiện, những đức tính tốt, những hạt giống tốt đă phát triển càng thêm phát triển, mỗi ngày một thêm lớn mạnh. Điều thiện ở đây được hiểu là các pháp đưa đến giải thoát khổ đau, như mười điều thiện, như vô tham, vô sân, vô si…

Trong kinh Tương ưng V, đức Phật dạy: “Như sông Hằng chảy xuôi về phương Đông, Tứ chánh cần được tu tập sung măn xuôi về Niết bàn”. Ở một đoạn khác, đức Phật dạy: “Để thắng tri, đoạn diệt, đoạn tận năm thượng phần kiết sử, Tứ chánh cần cần phải được tu tập”. Rồi đức Phật kết luận: “Như làm việc cần phải có sức lực, như đi phải có hai chân, hành giả trên đường về giải thoát luôn luôn tu tập Tứ chánh cần để hoàn bị thiện pháp”.
Rơ ràng, đức Phật đă khẳng định tinh tấn là yếu tố rất quan trọng trên bước đường tu tập và hành đạo. Người xuất gia như những chiến sĩ ra trận, cầm gương báu trí tuệ xông pha chiến trường khổ đau sinh tử để giết giặc phiền năo, si mê, tham lam, sân hận. Nếu không có đủ nghị lực, không nỗ lực tinh tấn, sẽ bị giặc phiền năo đánh gục. Sự siêng năng tu tập của những người con Phật là để phá phiền năo ác, nhiếp phục bốn loài ma, để vượt ra ba cơi. Đó gọi là Chánh tinh tấn. C̣n mọi nỗ lực khác, v́ một yếu tố ǵ đó, chẳng hạn như siêng năng tụng kinh để cầu phước, để người ta cúng dường… th́ đó không phải là sự tinh tấn chân chính. Cho nên, tinh tấn là một năng lực tổng hợp của sự hiểu biết, ước muốn giải thoát và chánh niệm tỉnh giác. Nếu rời ba tính chất này th́ sự siêng năng tinh tấn có thể rất nguy hiểm. Bát Đại Nhân Giác đưa ra những mục tiêu để nỗ lực tinh tấn là:

- Tinh tấn Phá phiền năo ác. Có nghĩa là phá bỏ những tâm lư bất thiện. Những tâm lư
này gồm có:

1. Căn bản phiền năo: Tham, sân, si, mạn, nghi và ác kiến. Đây là cái gốc sinh ra tất cả các loại phiền năo khác nên gọi là căn bản phiền năo, hay c̣n gọi là thuộc bản năng tiềm ẩn.

2. Tuỳ phiền năo: Là những phiền năo phát sinh từ những căn bản phiền năo, bao gồm:

+ Tiểu tuỳ phiền năo: Gồm phẫn (cáu), hận (ấp ủ măi sự tức giận trong ḷng), phú (che dấu tội lỗi), năo (buồn bực), tật (ganh ghét), khan (bỏn xẻn, keo kiệt), cuống (lừa dối), xiểm (nịnh hót), hại (hăm hại) và kiêu (kiêu ngạo).

+ Trung tuỳ phiền năo: Gồm vô tàm (không biết xấu), vô quư (không biết thẹn).

+ Đại tuỳ phiền năo: Gồm trạo cử (thân, tâm xao động chẳng yên), hôn trầm (buồn ngủ, rũ rượi), bất tín (không có niềm tin), giải đăi (lười biếng), phóng dật (buông lung), thất niệm (không nhớ), tán loạn và bất chính tri (không hiểu biết đúng đắn).

Nguyên nhân phát sinh những phiền năo này là do vô minh và tâm lư chấp ngă. Do đó, phá giặc phiền năo tận gốc rễ là phải nhổ sạch vô minh và tâm lư chấp ngă.

- Tinh tấn nhiếp phục bốn loài ma. Ma ở đây có nghĩa là tất cả những ǵ làm chướng ngại sự tu tập. Cụ thể:

+ Ma phiền năo: Tức chính là những tên giặc phiền năo vừa nói ở trên. V́ những tên giặc này - như tham, sân, si – nó tiềm ẩn bên trong tâm thức, chập chờn ẩn hiện như những bóng ma. Khi chúng hiện hữu có thể làm năo hại thân tâm, khiến cho cuộc sống ngột ngạt, khổ đau, rối loạn và làm tiêu tan các pháp lành. Trong mỗi con người không có tu tập, không biết chuyển hoá, đều đang nuôi dưỡng những con ma này.

+ Ma ngũ ấm. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là những yếu tố duyên sinh tạo nên chúng sinh trong ba cơi. Nó vốn vô ngă. Nhưng chúng sinh mê mờ, nhận thức sai lầm về nó, cho rằng là ngă, là ngă sở. Do nhận thức này mà chúng sinh bị năm ấm trói buộc, khiến cho đau khổ, sinh tử luân hồi. Chẳng hạn, do chấp thủ sai lầm về thân thể, cho thân thể giả tạm này là ta, nên bị các nhu cầu về ăn mặc, ngủ nghỉ, hưởng thụ của thân thể chi phối, lôi cuốn mà tạo ra các điều tội lỗi. Đối với các thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.

Trong Phật giáo, khi nói đến con người là nói con người của năm uẩn, ngoài năm uẩn ra không có ǵ được gọi là ta hay của ta. Năm uẩn lại thường luôn thay đổi, sinh ra muôn thứ bệnh. Bệnh cũng là một thứ ma, con ma bệnh, nó làm năo hại thân tâm, khiến cho chúng ta không thể nào tu học được.

+ Tử ma: Là con ma chết. V́ cái chết cắt đứt, chấm dứt mạng căn của con người, làm mất cơ hội tu tập nên gọi là tử ma. Nói cách khác, tất cả những ǵ đưa đến chấm dứt sự sống của con người đều gọi là tử ma.

+ Thiên ma: Là ma vương của cơi trời thứ 6 (Đệ lục thiên). Theo Huyền ứng âm nghĩa, quyển 23, th́: “Đây là một loài ma gây chướng ngại cho người tu đạo. Cũng có tên gọi là Sát ngă, v́ thường làm những chuyện phóng dật mà tự hại thân. Đó tức là chúa tể của Đệ lục thiên, tên gọi khác là Ba-tuần, có nghĩa là ác ái”. Cũng theo sách này, th́ mỗi đức Phật xuất hiện ở đời đều có một loài ma quấy phá lúc sắp giác ngộ. Như thời Phật Ca Diếp th́ ma tên là Đầu sư, có nghĩa là ác sân.

- Và tinh tấn để thoát khỏi ngục tù của năm ấm và ba cơi. Năm ấm là hợp thể tạo nên chúng sinh trong ba cơi như đă giải thích trước. Ba cơi là dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
Kinh Pháp Hoa nói: “Tam giới bất an, do như hoả trạch”, nghĩa là ba cơi giống như nhà lửa, không một chúng sinh nào ở trong đó mà có được an ổn. Cho nên nói ba cơi là ngục tù, là nơi giam hăm, trói buộc của dục vọng và khát ái. Chúng sinh ở cơi dục th́ bị trói buộc bởi dục vọng, của sự tham dục. Như chúng ta, là những kẻ do tham dục mà hiện hữu ở cơi này. Chúng sinh ở cơi sắc th́ bị trói buộc bởi các ái nhiễm của thọ lạc vi tế. Chúng sinh ở cơi vô sắc th́ bị trói buộc bởi sự ái nhiễm về tưởng. Nói chung, chúng sinh trong ba cơi đều bị tham dục hay khát ái trói buộc và cuốn trôi trong ḍng chảy tử sinh luân hồi vô tận. V́ vậy, tinh tấn là một quá tŕnh nỗ lực diệt tận ḷng tham dục, tâm khát ái để vượt qua nhà lửa tam giới.

4, Kết luận:

Cuộc đời nói riêng, ba cơi nói chung, được đức Thế tôn ví như ḍng bộc lưu, tức là ḍng thác dữ. Nghĩa bóng cuả nó là ḍng hữu vi, ḍng ái, ḍng vô minh, chấp thủ hay ḍng sinh tử luân hồi. Sinh tử như một ḍng thác lũ cuồn cuộn cuốn phăng đi bao kiếp sống của chúng sinh. Chúng sinh ở trong ba cơi chính là ở trong ḍng thác dữ ấy. Nếu đứng lại, sẽ bị nhấn ch́m, nếu bước tới sẽ bị cuốn trôi. Và v́ vậy, để không bị nhấn ch́m hay cuốn trôi, chúng ta phải nỗ lực tinh tấn để vượt thoát ra khỏi ḍng chảy sinh tử luân hồi, của ngục tù tam giới. Đó là mục đích duy nhất của người xuất gia.

Bài 5

Trọn bộ 6 quyển
Quyển hạ
Quyển 6
Quyển 5
Quyển 4
Quyển 3
Quyển 2
Quyển 1
Phẩm XXVI - PHẨM BÀ LA MÔN- VERSETS SUR LE BRAHMANE
Phẩm XXV - PHẨM TỲ KHEO- VERSETS SUR LE BHIKKOU
Phẩm XXIV - PHẨM THAM ÁI - VERSETS SUR LA SOIF
Phẩm XXIII - PHẨM VOI RỪNG
Phẩm XXII - PHẨM ĐỊA NGỤC
Phẩm XXI - PHẨM TẠP LỤC
Phẩm XX - PHẨM CHÁNH ĐẠO
Phẩm XVIII - PHẨM CẤU UẾ
Phẩm XVII - PHẨM PHẪN NỘ
Phẩm XVI
Phẩm XV
Phẩm XIX - Phẩm Pháp Trụ
Phẩm XIV
Phẩm XIII
Phẩm Tinh Cần
Phẩm song yếu
PHẨM TÂM Ư - CITTA VAGGA - MIND
PHẨM TỰ NGĂ - ATTA VAGGA - THE SELF
PHẨM NGU SI - BĀLA VAGGA
PHẨM NGÀN - SAHASSA VAGGA
PHẨM HOA HƯƠNG - VERSET SUR LES FLEURS
PHẨM HIỀN TRÍ - PANDITA VAGGA
PHẨM GIÀ YẾU - JARAA VAGGA
PHẨM ÁC - PAAPA VAGGA
PHẨM A-LA-HÁN - ARAHANTA VAGGA
PHẨM ĐAO TRƯỢNG - DANDA VAGGA
Phần 3
Phần 2
Phần 1
KINH TẠP A HÀM
Bài 9
Bài 8
Bài 7
Bài 6
Bài 4
Bài 3
Bài 2
Bài 10
Bài 1


KINH TẠP A-HÀM

Kinh Pháp cú

Kinh Pháp cú

Kinh Pháp cú

Kinh Bát Đại Nhân Giác

YẾU GIẢI KINH A DI ĐÀ

Kinh Pháp cú

Kinh Pháp cú

Kinh Pháp cú

Kinh Bát Đại Nhân Giác

Kinh Pháp cú

Kinh Pháp cú

Kinh Pháp cú

Kinh Bát Đại Nhân Giác

Kinh Pháp cú
Website: http://chuavanhanh.free.fr
Email: chuavanhanh@free.fr