Trang chủ En français Tin tức H́nh ảnh Thơ Văn Âm nhạc
GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA
Hôm nọ, lúc tôi chuẩn bị viết bài tựa cho cuốn sách này, có một vị tăng đến thăm, và hỏi rằng:

- Người xuất gia cần phải làm những việc ǵ?

Tôi t́nh thật trả lời:

- Cầu đạo, làm đạo.

Vị ấy lại hỏi:

- Cầu đạo, việc căn bản nhất phải làm là ǵ?

Tôi nói:

- Là tu bồi đạo đức, giới hạnh.

Vị tăng ấy liền nói:

- Ôi, thầy thật là cố chấp! Người thượng căn lợi khí th́ nhờ trí huệ mà vào đạo, kẻ hạ căn độn khí th́ chỉ có tu phước mà thôi. Cho nên, người xuất gia cần nhất là phải cầu cho được trí huệ, có trí huệ th́ tự nhiên đầy đủ tất cả, cần ǵ phải tu bồi đạo đức, tu tập giới hạnh?

Tôi nghe vậy, ḷng vô cùng ái ngại, nhưng vẫn nhỏ nhẹ thật t́nh:

- Người xưa từng nói, đạo đức là gốc căn bản làm người. Lại nói, ở đời người muốn lập chí lớn, làm việc lớn, trước hết phải tự lượng khí chất và năng lực của ḿnh, huống chi pháp của Phật, bậc Chánh đẳng giác, cao thâm vi diệu, lẽ nào người thường có thể tùy tiện tiếp nhận, lănh ngộ được sao?

Cũng giống như người có sữa của sư tử, thứ ấy là quư, mà không biết dùng b́nh lọ quư báu như lưu ly để cất giữ, lại đem bỏ trong mảnh sành, b́nh đất th́ không phải là phí phạm, để cho hư nát hay sao? Lại giống như một người lực sĩ, khiêng chiếc đỉnh nặng ngàn cân, leo lên chiếc thuyền lá bé nhỏ, th́ làm sao tránh khỏi cái nạn lật thuyền mà chết?

Ngày nay, người xuất gia có chút ít tri thức, th́ đă vội vàng tập tành học cách chú giải, khảo cứu, biên chép… chẳng khác nào những thư sinh nhà Nho chuyên làm con mọt sách. Người có tri thức tŕnh độ hơn chút nữa, th́ tầm chương trích cú những lời dạy của cổ nhân, vay mượn một cách máy móc, biên chép lại thành sách rồi cho là của ḿnh; nắm bắt những thứ cặn bả, vụn vặt như ngói gạch phế thải... của chư vị Tổ sư đă bỏ đi, vậy mà cứ cho là của ḿnh sáng tác; thật đúng là làm tṛ thả h́nh bắt bóng, chẳng được ǵ cả, ngược lại c̣n làm tṛ cười cho kẻ trí! Những hạng người này, giảng kinh thuyết pháp nghe hùng hồn lắm, mỗi chữ mỗi câu đều phảng phất như lời chư Phật, chư Tổ, rất cao minh, nhưng khảo sát lại hành vi của họ th́ chẳng khác nào những kẻ phàm phu tục tử. Thời kỳ mạt pháp, những hạng người bại hoại như vậy thật nhiều lắm!

Tôi rất lo lắng, sợ những người xuất gia rơi vào những t́nh cảnh nông nỗi như vừa nói trên, cho nên mới sưu tập, ghi chép lại những thiện hạnh của người xưa, trích lấy phần trọng yếu, phân thành mười loại. Mười loại ấy là ǵ?

Từ bỏ mọi sự nhiễm ô của thế tục, gọi là xuất gia. Xuất gia, điều đầu tiên phải nói đến là sự thanh cao và giản dị, cho nên, thiện hạnh thứ nhất mà người tu phải noi theo học tập là Thanh tố. Nhưng thanh cao mà không nghiêm chính th́ chỉ là cái thói làm cao của kẻ cuồng sĩ. Người học Phật nhất định phải thâu nhiếp ba nghiệp thân, khẩu, ư cho thanh tịnh th́ mới có cơ hội thành tựu đạo nghiệp, cho nên điều thiện hạnh thứ hai phải học là Nghiêm chính. Hành vi nghiêm chính cần phải nương nhờ thầy chỉ dạy, mới tránh khỏi sai lầm. Người thầy là bậc mô phạm, nuôi dạy ta thành người, cho nên điều thiện hạnh thứ ba là phải Tôn sư. Có cha mẹ sanh ta, nuôi ta lớn khôn, sau mới có thể tiếp nhận sự giáo dục của thầy, quên mất công ơn cha mẹ là bất hiếu, vong bản. Vả lại, giới hạnh luật nghi tuy rất nhiều, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hiếu hạnh, cho nên, thiện hạnh thứ tư là Hiếu thân. Kẻ trung thần xuất thân từ người con hiếu. Đạo lư trung hiếu phải vẹn toàn, chỉ biết có t́nh thân, không biết có ân quân chủ, quốc gia th́ đó là hành vi của người tự tư tự lợi. Trong sách có ghi: “một người có phước, vạn dân đều nhờ”, là ư nói khi có một bậc quân chủ đức độ nhiếp chính th́ quốc thới dân an, chúng ta nhờ vậy mà có thể được xuất gia, tự do đi lại khắp núi rừng sông suối để ẩn cư tu tập. Ân quốc gia cũng thật lớn thay! Cho nên, điều thiện hạnh thứ năm là phải trung thành với đất nước, Trung quân. Nhưng nếu chỉ biết đến đạo lư trung quân, tức là chỉ giao tiếp qua lại với các cấp chính quyền lănh đạo, mà không quan tâm đến nhân dân, những người tín chủ đă ủng hộ ḿnh tu tập th́ cũng không tṛn đạo lư. Nên cần phải nghĩ nhớ đến những người chân lấm tay bùn, nghèo khổ bần cùng, đó là điều thiện hạnh thứ sáu, Từ vật. Từ và ái rất gần gũi. Người xuất gia mà sinh ḷng ái nhiễm là một điều chướng ngại lớn cho việc tu hành, v́ vậy, điều thiện hạnh thứ bảy là phải sống cho Cao thượng. Nhưng cao thượng không có nghĩa là cô phương tự phụ. Người xuất gia giữ khoảng cách với mọi người là để yên thân tu tập, một mặt là để trau dồi bản thân, hoàn thành xứ mạng tự độ của ḿnh, sau đó, khi công phu tu tập đă cao thâm rồi th́ tự nhiên đạo hạnh sáng rỡ muôn phương, khi ấy là lúc trở lại hóa độ chúng sanh. Đó là điều thiện hạnh thứ tám, Tŕ trọng. Tŕ trọng là cẩn thận mà ẩn cư, t́m chốn thanh nhàn vô sự như thế chẳng qua cũng là bất đắc dĩ, v́ đạo hạnh chưa thâm, cho nên phải chịu Gian khổ, đó là điều thiện hạnh thứ chín. Tuy nhiên, cũng có người sợ sự gian khổ ở ngoài đời mà t́m đến núi rừng, chùa viện để ẩn cư, trốn tránh việc đời, trở nên những kẻ vô công, ăn nhờ cửa Phật, đó không phải là hành vi gian khổ mà là mượn đạo tạo đời, đạo tâm đă thui chột. Một khi đạo tâm đă thối lui rồi th́ không việc ác nào lại không dám làm. Kỳ thật, đạo lư nhân quả báo ứng không chừa một ai, dù nhỏ như sợi lông hạt bụi vẫn chưa bao giờ sai khác. Cho nên, người xuất gia không thể không nghĩ đến nhân quả báo ứng, đó điều thiện hạnh thứ mười, Cảm ứng, tức là phải luôn luôn ghi nhớ luật nhân quả.

Mười điều thiện hạnh trên đây nếu tu tập đầy đủ th́ đạo hạnh mới hoàn thiện, mới trở thành nhân tài có thể kham nhận Phật pháp. Cũng giống như đất đai đă được cải thiện ph́ nhiêu, mầu mở rồi sau đó mới có thể trồng cây, gieo hạt được tốt tươi. Đất tâm cũng vậy, một khi đă được tinh thuần rồi th́ đạo lư mới có thể tin hiểu, thọ tŕ; đạo lớn bồ đề chí cao vô thượng mới có thể kỳ vọng thành tựu. Nếu không như lời trên đây để tu hành th́ chỉ là một phường phàm phu bỉ lậu mà thôi!

Đạo lư làm người mà không làm được, th́ làm sao học làm Phật? Dù thầy là người thượng căn lợi khí, rất mực tài trí thông minh đi nữa, cũng chỉ có hại mà thôi. Trí lực càng cao, chướng ngại càng lớn, tu hành càng khó thành tựu. Người không có đạo hạnh như vậy làm sao có thể làm người xuất gia tu hành?

Khi tôi nói xong mấy lời trên đây th́ vị tăng ấy lại nói:

- Diệu pháp tu tập của tôi là một hạt bụi không lập, xưa nay không một vật, bụi bặm báo vào đâu? Mười thiện hạnh của ngài đem dùng vào chỗ nào?

Tôi trả lời:

- Rơ ràng là năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức đang thiêu đốt mạnh mẽ, rối loạn khắp nơi; bốn đại địa, thủy, hỏa, phong đang gây phiền phức khắp chốn, sao lại nói không có vật ǵ?

Vị tăng ấy căi:

- Bốn đại vốn không có tướng, năm uẩn vốn chẳng có thật.

Tôi nghe vậy liền bước đến trước thầy ấy đánh cho một tát, nói:

- Hiện nay, kẻ học đ̣i lời lẽ của người xưa để biểu thị kiến giải của ḿnh rất nhiều. Thầy đáp chưa trúng vào đâu cả, hăy thử dùng kiến giải của chính bản thân thầy đáp lại tôi xem.

Vị tăng ấy không đáp được, giận dữ bỏ đi. Khi ấy tôi cười mà nói:

- Bây giờ trên mặt thầy đầy vẻ giận dữ, đó chính là bụi bẩn của bốn đại và năm uẩn đấy, sao thầy không lau đi!

Người xuất gia cần phải chú ư! Lên cao phải tự biết ḿnh bé nhỏ, chớ nên tự đại, đừng vọng nói Bát nhă, lạm giải Tánh không mà tự chuốc lấy tai ương. Và, ngàn vạn lần xin khuyên người xuất gia đừng v́ một chút danh lợi bèo bọt, hư vinh mà tham đắm. Hăy tu dưỡng phẩm hạnh đạo đức của ḿnh, đem hết tâm lực tinh thần mà tu tập, quyết một phen sống chết, lâu ngày tự nhiên tâm được bừng mở, cửa ngỏ giác ngộ bước đến nơi, sau đó mới có được sự thể hội chân chính, không bỏ vạn hạnh cũng chẳng nhiễm trần; suốt ngày không chấp không mà cũng chẳng chấp có, đó chính là đạo lư đệ nhất nghĩa đế: chân không diệu hữu. Đây mới là trí tuệ chân thật của nhà Phật. Xin những người xuất gia hăy một lần để tâm tham cứu.

Tôi rất lấy làm hỗ thẹn v́ đạo lớn vẫn c̣n chưa thể hội, thêm nữa đức hạnh mỏng manh, viết cuốn sách này, mục đích chủ yếu là muốn cứu văn những căn bệnh của người xuất gia ngày nay, để báo đáp ân đức của chư Phật mà thôi. Người có trí thấu t́nh đạt lư, nếu không v́ chỗ nông cạn của tôi mà bỏ qua những sơ xuất, hy vọng c̣n lưu thông cuốn sách này để cho mọi người tu thiền tham cứu th́ thật là quư báu biết bao!

Niên hiệu Vạn Lịch thứ 13
Hàng châu, ngày trọng Đông
Sa môn Châu Hoằng


Trang trước Trang tiếp

Tựa

TÔNG LÂM TẾ
Tiểu sử đại sư Liên Tŕ
Thiền Sư Băng Hoài Tế Năng Thị Chúng
Thời gian không có già
Thơ và Thiền
Sống thong dong
Lời tựa
Lời nói đầu
Kính chuông như kính Phật
Không có đạo tâm
Hai thanh kiếm
Hạt cải chứa núi Tu-di
Chương 9
Chương 8
Chương 7
Chương 6
Chương 5
Chương 4
Chương 3
Chương 2
Chương 10
Chương 1
Bản lai diện mục
Ăn mày và thiền


GIÁC HỔ TẬP

GIÁC HỔ TẬP

GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA

GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA

GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA

GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA

GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA

GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA

GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA

GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA

GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA

GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA

Giai thoại thiền

Giai thoại thiền

Giai thoại thiền
Website: http://chuavanhanh.free.fr
Email: chuavanhanh@free.fr