Trang chủ En français Tin tức H́nh ảnh Thơ Văn Âm nhạc
Niệm
Trong Phật giáo, ‘niệm’ là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp; nó được xếp vào một trong năm loại tâm sở biệt cảnh. Biệt cảnh có nghĩa là nó chỉ xuất hiện trong những trường hợp và cảnh vực sai biệt, duyên vào từng đối tượng cụ thể mà sanh khởi.

Niệm, tiếng Phạn là smṛti, có nghĩa là nhớ. Theo Duy thức học, niệm là tác dụng của tâm nhằm ghi nhớ rơ ràng, không để quên mất một đối tượng nào đó. Thông thường, chúng ta hay nói là ‘hoài niệm’, tức là chỉ cho cái tâm nhớ về cảnh giới quá khứ, nhớ những chuyện đă qua.

Phẩm loại túc luận nói ‘niệm là rơ tâm, nhớ tính’. Câu-xá luận nói ‘niệm là nhớ rơ đối tượng không quên’. Đại thừa quảng ngũ uẩn luận ghi: ‘Niệm là ǵ? Tự tính của nó là nhớ rơ không quên mất của tâm đối với việc đă từng quen thuộc. Việc đă từng quen thuộc nghĩa là những việc đă từng được huân tập (đă từng trải qua trước kia). Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho sự không tán loạn (sở y cho định)’.

Thành duy thức luận cũng định nghĩa: ‘Niệm là ǵ? Tự tính của nó là sự ghi nhớ rơ ràng không quên mất của tâm đối với cảnh đă từng quen thuộc. Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho định. Tức là thường xuyên ghi nhớ cảnh đă từng được tiếp nhận không để cho quên mất th́ có thể dẫn đến định. Đối với cảnh mà thể và loại của nó chưa hề được tiếp nhận, niệm hoàn toàn không phát khởi. Giả sử đối tượng đă từng được tiếp nhận nhưng không được ghi nhận rơ ràng, niệm cũng không phát sanh’.

Định nghĩa này cho chúng ta thấy rơ rằng, muốn ‘niệm’ phải có cảnh, và cảnh này phải là cảnh đă từng tiếp nhận, từng huân tập, từng ghi nhớ dấu ấn trong tâm, tức là những cảnh đă được huân tập thành chủng tử. Như vậy, niệm là nhớ những cảnh ở trong tâm, hay nói cách khác là nhớ những hạt giống đă gieo trồng trong tâm.

Cảnh có hai loại. Một là cảnh, là đối tượng mà ḿnh có thể nhận thức trực tiếp, mắt thấy, tai nghe, gọi là thể cảnh (cảnh hiển bày trước mắt). Hai là cảnh, là đối tượng được nhận thức do loại suy, tức là dựa vào những h́nh ảnh, những cảnh giới… được miêu tả trong kinh sách mà tưởng tượng ra những h́nh ảnh, những cảnh giới giống như đă miêu tả, gọi là loại cảnh. Đối với cả hai cảnh này, tâm phải từng tiếp nhận, từng huân tập, từng huấn luyện sao cho đối tượng in dấu trong tâm thức rơ ràng, trở thành chủng tử, thành hạt giống nằm ở trong tâm thức th́ chúng ta mới có thể ‘niệm’ nó được. Bởi v́, như luận đă nói, ‘đối tượng đă từng được tiếp nhận nhưng không được ghi nhận rơ ràng, niệm cũng không phát sanh’, huống chi là đối tượng mà ḿnh chưa từng tiếp nhận, chưa từng huân tập làm sao ‘niệm’ (nhớ) cho được?!

Nhưng những điều ḿnh nhớ đa phần là vọng tưởng. Bởi những nỗi nhớ đó làm cho ḿnh đánh mất hiện tại, nó kéo ḿnh về quá khứ, để vui, để buồn với những chuyện đă qua… Mà cuộc sống hiện thực là bây giờ và ở đây, ngay trong giờ phút hiện tại. Cho nên, nhớ về quá khứ hay mơ tưởng về tương lai đều không giúp ǵ được cho ḿnh hết. Nếu ḿnh biết sống trong hiện tại cho thật hạnh phúc, cho thật chánh niệm và tỉnh giác th́ ḿnh biết quá khứ hay tương lai đều đang có mặt trong từng phút giây hiện tại, ḿnh không cần phải nhớ hay mơ ước ǵ hết. Cho nên, niệm ở trong đạo Phật là nhớ những ǵ đưa ḿnh tới an lạc và giải thoát mà thôi, c̣n những ǵ làm cho ḿnh mệt, ḿnh khổ, ḿnh phiền năo, th́ ḿnh không cần phải nhớ.

Những cái ḿnh nhớ mà đưa tới an lạc giải thoát, đưa tới ly dục, ly bất thiện pháp, th́ Phật chỉ cho ḿnh niệm. Như Phật dạy ḿnh nhớ hơi thở. Thực tập theo dơi và đếm hơi thở ra vào gọi là quán sổ tức, hay c̣n gọi là an ban niệm; ḿnh nhớ Phật, nhớ Pháp, nhớ Tăng, nhớ Bố thí, nhớ giữ Giới, nhớ cơi Thiên, th́ gọi là Lục niệm… C̣n nhiều thứ đức Phật chỉ dạy ḿnh nhớ, để ḿnh thoát khổ, như nhớ Tứ niệm xứ, nhớ Tứ vô lượng tâm… Th́ khi ḿnh nhớ những cái đó gọi là niệm. Niệm như vậy là một pháp môn tu tập.

Muốn niệm được thành công th́ ḿnh phải có ước muốn, tức là phải làm cho tâm sở dục phát sanh. Tâm sở dục là ǵ? Câu-xá luận định nghĩa : “Đặc tính của nó là hy vọng ở nơi đối tượng đáng yêu thích. Đối tượng đáng được yêu thích là những ǵ muốn thấy, muốn nghe… th́ hy vọng, mong cầu. Nghiệp dụng của nó là sở y cho tinh thần”. Chẳng hạn, ḿnh muốn niệm Phật thành công th́ ḿnh phải có ước muốn, ưa thích Tịnh độ, điều mà trong Kinh vô lượng thọ gọi là ‘tín nhạo’ : “nhược hữu chúng sanh, dục sanh ngă quốc, chí tâm tín nhạo” (nếu có chúng sanh nào ưa muốn được văng sanh về cơi nước của Ta, th́ hăy hết ḷng tin tưởng và ưa thích). Hết ḷng tin tưởng và ưa thích không phải là điều kiện của Phật A-di-đà đưa ra để ai tin tưởng và ưa thích Ngài th́ Ngài tiếp dẫn về thế giới của Ngài; mà đó là điều kiện để ḿnh có thể tu pháp môn niệm Phật được. Tâm ḿnh có tin tưởng, ước muốn và ưa thích rồi th́ nó mới có thể ghi dấu lên tâm thức, tức làm cho đối tượng thành chủng tử, mà thuật ngữ gọi là thắng giải.

Thắng giải là, Câu-xá luận định nghĩa : “Đặc tính của nó là ghi dấu ấn trên đối tượng đă được xác định, nhận thức đúng như bản chất của nó. Nói ‘xác định’ tức là duy tŕ dấu ấn trên sự thể đă được xác định. Nghiệp dụng của nó là không bị dẫn chuyển, v́ nó có tăng thắng, không thể bị dịch chuyển bởi cái khác”. Khi ḿnh ‘nhớ Phật’ (tức là niệm Phật) là ḿnh ghi dấu ấn Đức Phật cùng với những phẩm tính vô cùng thù thắng, hy hữu của Ngài lên tâm thức của ḿnh. Tâm thức một khi đă ‘xác định’, đă duy tŕ dấu ấn Đức Phật, cũng như cảnh giới Tây phương cực lạc rồi th́ không có ǵ dẫn chuyển tâm của ḿnh đi về hướng khác được; nó nhất định đưa ḿnh tới Niệm – Định – Tuệ, và nhất định thành Phật.

Như vậy, tuần tự của quá tŕnh tu tập pháp môn niệm Phật nói riêng, tu học theo Phật pháp nói chung, để đạt được định, từ định mà có tuệ th́ lộ tŕnh của nó phải là : Dục – Thắng giải – Niệm – Định – Tuệ.
Lẽ hẳn nhiên là ḿnh không thể ‘niệm’, tức là không thể nào ‘nhớ’ được cảnh giới mà ḿnh chưa từng nh́n thấy, chưa từng tiếp nhận, chưa từng được ghi dấu trong tâm thức. Đối với những cảnh giới, những h́nh ảnh, những sự kiện ḿnh mới nghe qua, thấy qua… một đôi lần mà không ấn tượng ǵ th́ ḿnh cũng khó nhớ, hoặc nhớ một cách mơ hồ, tức là tâm sở niệm không thể phát sanh. Tâm sở niệm không phát sanh th́ không có định; nếu niệm mơ hồ th́ cũng khó đắc định.

Đây là lư do v́ sao chúng ta phải học thuộc ḷng Kinh A-di-đà. Học thuộc ḷng để cảnh giới Tây phương cực lạc được giới thiệu trong kinh in sâu vào trong tâm, làm cơ sở cho tâm niệm loại suy ra cảnh giới đó, để khi nghe đến tên kinh, nghe đến thất trùng lan thuẫn, thất trùng hàng thọ, thất trùng la vơng, liên tŕ, hoa sen lớn như bánh xe vân vân… th́ cảnh giới Tây phương Cực lạc lập tức hiện tiền trước mắt liền. Danh hiệu của Phật A-di-đà cũng vậy, chúng ta phải huân tập, phải niệm làm sao mà khi tâm vừa khởi niệm hay nghe đến danh hiệu Phật A-di-đà th́ lập tức h́nh ảnh của Phật A-di-đà đầy đủ tướng hảo, công đức thù thắng, bổn nguyện độ sanh… đều hiển hiện rơ ràng trong tâm, như thấy trước mặt, th́ như vậy là niệm Phật thành công.

Như vậy, với một người suốt đời không tin Tam bảo, tạo tội ngũ nghịch, làm mười việc ác… gây đủ mọi thứ tội lỗi th́ hẳn là chưa từng huân tập h́nh ảnh và công đức của Phật, tức là đối với cảnh mà thể và loại của nó chưa hề được tiếp nhận, th́ người ấy không thể niệm Phật được, v́ tâm sở niệm hoàn toàn không phát khởi. Nói một cách khác, đối với một người chưa bao giờ biết đến chùa, chưa từng tụng kinh, niệm Phật, th́ hẳn chưa từng biết đến thế giới của chư Phật, chưa từng biết có cảnh Tây phương, cũng không hề biết có Phật A-di-đà, tức là họ chưa từng huân tập những hạt giống Tây phương tịnh độ, th́ đối với những người này không thể niệm Phật được.

Giả sử có người đă từng đi chùa, cũng có đôi ba lần tụng kinh, niệm Phật, cũng từng nghe nói đến thế giới Tây phương cực lạc, nghe nói đến công đức của Phật A-di-đà, tức là đă từng được tiếp nhận đối tượng, nhưng những đối tượng đó không được ghi nhận rơ ràng, th́ tâm sở niệm cũng không phát sanh, người ấy cũng không thể niệm Phật được.

Để đạt được định th́ bắt buộc phải tu niệm, do niệm mà dần đi vào định. Trong kinh có nói, tâm của chúng ta phiền năo tán loạn, khi nghĩ cái này khi nghĩ cái kia, không một sát-na dừng nghỉ, cho nên cần phải cho nó một đối tượng để cho nó duyên vào đó, để cột nó lại, khiến cho nó từ từ an trụ. Cũng giống như con trâu cứ chạy đông chạy tây, nếu ḿnh lấy sợi dây sỏ mũi và cột nó lại dưới gốc cây, bấy giờ nó có chạy cũng chỉ chạy lui chạy tới một chỗ dưới gốc cây thôi, chạy một hồi nó sẽ mệt, nó sẽ dừng lại và sẽ nằm xuống. Cái tâm của ḿnh cũng giống như vậy, nếu ḿnh buộc nó vào một chỗ th́ từ từ nó sẽ đi vào định.

Không những ḿnh tu định cần phải có niệm, mà ngay cả khi tu quán, tu huệ cũng cần phải có niệm. Cho nên, ở trong Phật pháp, niệm là một pháp vô cùng quan trọng.

Niệm có nhiều loại, tuỳ theo đối tượng ḿnh niệm mà có tên gọi khác nhau, như niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Tứ đế…

Bây giờ ḿnh nói niệm Phật, tức là lấy Đức Phật làm cảnh giới, làm đối tượng để mà niệm, mà nhớ. Khi ḿnh niệm Phật th́ tâm của ḿnh chuyên chú vào danh hiệu Đức Phật hoặc cảnh giới của Phật, niệm cho đến khi đắc định th́ gọi là niệm Phật tam-muội. Nhưng mà phải niệm cho thật chuyên chú, chứ nếu niệm không chuyên chú th́ cái tâm sở niệm không dễ ǵ hiện ra rơ ràng, định không dễ ǵ thành tựu. Nếu có thể làm cho tâm hết tán loạn, tâm không chạy theo những đối tượng khác, mà chuyên chú tập trung vào một cảnh thôi th́ tu niệm mới có khả năng thành công.

Trong kinh có nói một thí dụ như sau: Có một người nọ đắc tội với quốc vương, đáng phải xử tử. Bấy giờ quốc vương sai lấy một bát đựng đầy dầu, bắt người tội bưng lấy bát dầu đi ra đường phố đến một địa điểm đă quy định, nếu như anh ta có khả năng giữ bát dầu không rơi ra ngoài một giọt th́ quốc vương sẽ miễn tội chết cho. Kẻ phạm tội đó trong khi tính mạng đang bị uy hiếp mà t́m thấy con đường sống, cho nên đă để hết tâm ư vào tay bưng bát dầu. Trên đường đi có biết bao nhiêu màn ca múa hát xướng anh ta cũng không nghe không thấy; có biết bao tṛ đánh đá căi vả ồn ào anh ta cũng mặc kệ; cho đến những đoàn xe ngựa chạy tới chạy lui, biết bao cảnh vật xung quanh tác động vậy mà anh ta đều không để mắt tới, chỉ duy nhất tập trung tâm ư vào việc giữ ǵn bát dầu sao cho khỏi rơi ra ngoài dù chỉ một giọt. Cuối cùng th́ anh ta cũng bưng được bát dầu đi đến nơi quy định mà không để rơi một giọt nào, nhờ vậy anh được thoát khỏi tội chết.

Cũng như anh tử tù, chúng sanh đang bị ch́m đắm trong thế gian vô thường, đang bị bức bách bởi sanh tử khổ nạn, đang bị thiêu đốt trong nhà lửa Tam giới... Trong khi sự sống mong manh, vô thường như ngàn cân treo đầu sợi tóc ấy th́ ḿnh t́m thấy con đường sống bằng cách niệm Phật, như anh tử tù t́m thấy đường sống bằng việc làm sao bưng bát dầu không bị đổ trên suốt hành tŕnh nghiệp lực quy định. Chúng ta nếu muốn thoát ly sanh tử, thoát khỏi sự trói buộc trong ba cơi th́ phải tu niệm, phải buộc niệm cho chuyên tâm nhất ư, không để cho cảnh giới ngũ dục đáng ưa, đáng thích, đáng yêu trói buộc, đối với cảnh đáng sân mà không nổi sân, trong hoàn cảnh biến động, tán loạn mà giữ tâm bất động, như vậy gọi là buộc niệm chuyên nhất. Tham, sân, si… các thứ phiền năo không khởi th́ tâm sẽ gom về một chỗ, sẽ an trú trong trạng thái yên lặng, trong suốt, tức là đắc định. Có định th́ sẽ phát tuệ, từ đó, vô lượng công đức đều được thành tựu.
Ngược lại, nếu không tu niệm, sẽ không được định tâm. Mà tâm không có định th́ dù có đọc kinh, học Phật pháp, bố thí, cúng dường, tŕ giới… đều không thể đạt được công đức thù thắng trong Phật pháp, chỉ có thể đạt được một chút tri thức, một chút phước nghiệp, hưởng phước báo trời người mà thôi.

Xưa nay, người tu theo pháp môn niệm Phật, đại đa số mọi người chỉ biết niệm bằng cái miệng, cũng giống như nhà thiền nói chuyện thiền trên lưỡi, gọi là ‘khẩu đầu thiền’, có rất ít người biết được ư nghĩa thâm sâu của pháp môn niệm Phật. Nếu niệm Phật mà chỉ niệm bằng cái miệng suông, trong tâm không có Phật, không tưởng nhớ công đức của Phật, không quán tưởng về Phật và cảnh giới của Phật th́ cũng như máy niệm Phật thôi !

Cho nên, nếu chỉ niệm Phật bằng cái miệng suông, tâm không nhớ Phật th́ không thể gọi là niệm Phật được, mà chỉ có thể gọi là ‘kêu tên của Phật’, ‘phụ họa niệm Phật’... Niệm Phật chân chính là phải tâm tâm buộc niệm vào cảnh giới Phật, cột tâm vào danh hiệu Phật, ghi nhớ rơ ràng, không để xao lăng, không để quên mất. Nói một cách đơn giản, niệm Phật là phải nhớ Phật. Phật là người như thế nào, có những công đức ǵ, tướng hảo trang nghiêm ra sao… ḿnh phải ghi nhớ rơ ràng trong tâm khi đọc đến, nghe đến, niệm đến danh hiệu của Ngài.

Về phương pháp niệm Phật th́ chính đức bổn sư Thích-ca mâu-ni Phật đă hướng dẫn : “Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi bắt tréo chân, cột niệm ở trước, chuyên tinh niệm Phật, không có niệm tưởng nào khác. Quán h́nh của Như lai, mắt không hề rời. Trong khi mắt không rời, niệm tưởng công đức Như lai”. Đoạn kinh này chỉ dẫn ba cách niệm Phật :

- Chuyên tinh niệm Phật, không có niệm tưởng nào khác là Tŕ danh niệm Phật hay Xưng danh niệm Phật. Hành giả buộc tâm vào câu Phật hiệu Nam-mô A-di-đà Phật, niệm niệm liên tục, niệm trước tiếp nối niệm sau không dứt, không để bất cứ một ư niệm nào khác xen tạp vào. Niệm như vậy trong ṿng năm mười phút mà không bị gián đoạn, không có vọng tưởng, th́ đạt được định, gọi là niệm Phật tam-muội. Nếu niệm được từ một đến bảy ngày liên tục không gián đoạn, không xen tạp, nhất tâm bất loạn th́ ngay hiện tiền chứng được bất thối chuyển, lúc lâm chung được Phật A-di-đà và Thánh chúng đến đón về Tịnh độ.

- Quán h́nh của Như lai, mắt không hề rời là Quán tượng niệm Phật. Hành giả thỉnh một tượng Phật, hoặc h́nh Phật, hoặc bức tranh Tây phương Cực lạc… thiết trí nơi trang nghiêm. Mỗi ngày để ra năm mười phút ngồi ngay thẳng trước tôn tượng, tập trung tâm ư, mắt nh́n tượng Phật, nh́n thật chăm chú, ngắm nh́n từ nét mặt đến nếp y, h́nh dáng… sao cho h́nh ảnh của đức Phật A-di-đà in đậm trong tâm thức đến nỗi khi rời khỏi Phật điện, đi đến bất cứ đâu và ở bất cứ lúc nào, hễ khởi tâm nhớ Phật, niệm Phật th́ lập tức h́nh ảnh đức Phật hiện ra rơ ràng trước mắt, lúc nào trong tâm cũng thấy Phật. Trong tâm lúc nào cũng thấy Phật th́ bao nhiêu tội lỗi, nghiệp chướng đều tiêu trừ, bao nhiêu công đức thù thắng đều thành tựu, ngay trong hiện đời cảm được pháp lạc vô dư.

- Niệm tưởng công đức của Như lai là Quán tưởng niệm Phật. Hành giả nhớ nghĩ đến công đức của Phật A-di-đà, Ngài có 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh, từ bi nguyện lực sâu rộng… Dù trong đời này hay đời khác, hay trên thiên giới, không có tài bảo vi diệu nào sánh với đức Như Lai. Ở đây, Phật là tài bảo tối thắng vi diệu. Bằng sự thực này, ước nguyện tất cả đều được an lành, lâm chung đều được sanh về cảnh giới của Phật A-di-đà.

Trên đây là ba phương pháp niệm Phật căn bản, được Tăng Ni, Phật tử thực tập rất thịnh hành ngay thời Phật c̣n tại thế. Trong các phương pháp niệm Phật, th́ phương pháp ‘Xưng danh niệm Phật’ là giản dị nhất.

Nhưng ‘Xưng danh niệm Phật’ tuyệt đối không phải chỉ là xưng niệm trên miệng. Xưa nay chúng ta tŕ tụng Kinh A-di-đà của ngài Cưu-ma-la-thập dịch, trong bản kinh này nói ‘chấp tŕ danh hiệu’, tức niệm danh hiệu Phật liên tục, không gián đoạn ; nhưng trong một bản dịch khác của ngài Huyền Trang th́ câu kinh đó là ‘tư duy niệm Phật’, tức thiền quán về danh hiệu Phật. Từ đó chúng ta thấy rằng, ‘Xưng danh niệm Phật’ tuyệt đối không phải chỉ là niệm Phật bằng cái miệng, mà phải niệm bằng cái tâm, để danh hiệu Phật vào trong tâm, buộc niệm vào danh hiệu Phật rồi tư duy thiền quán. Nhờ xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, và nhờ danh hiệu mà thể hội được công đức, thật tướng của Phật ; buộc niệm tư duy về công đức và thật tướng của Phật mới gọi là niệm Phật.

Cho nên, điều quan trọng nhất của hành giả Tịnh độ là khi xưng niệm danh hiệu Phật là đừng bao giờ dừng lại ở chỗ chỉ xướng tụng bằng cái miệng, niệm Phật trên miệng mà trong tâm rỗng tuếch th́ không khác ǵ máy niệm Phật !

Văn Thù Sư Lợi sở thuyết ma-ha bát-nhă ba-la-mật kinh dạy rằng: “Ai muốn nhập vào tam-muội nhất hạnh, nên đến ở một chỗ trống vắng, bỏ hết những loạn ư, không duyên vào tướng mạo, buộc tâm vào một đức Phật mà chuyên đọc danh tự của đức Phật ấy; tùy theo phương hướng xứ sở của đức Phật ấy mà ngồi thẳng xoay mặt về phương hướng xứ sở đó”.

Đoạn kinh trên cho thấy, nếu hành giả niệm Phật muốn đạt đến cảnh giới nhất tâm bất loạn th́ phải ‘đến ở một chỗ trống vắng, bỏ hết những loạn ư, không duyên vào tướng mạo (bên ngoài), cột tâm vào một đức Phật, chuyên niệm danh hiệu Phật ấy’. Nếu hành giả muốn văng sanh Tịnh độ của Phật A-di-đà th́ phải ngồi ngay thẳng, xoay mặt về hướng Tây, chuyên niệm danh hiệu ‘nam-mô A-di-đà Phật’.

Để niệm Phật dễ đắc định, hành giả vừa niệm vừa nghe lại âm thanh niệm Phật của ḿnh. Phương pháp này gọi là phản văn niệm Phật, cũng gọi là Kim cang tŕ. Hành giả niệm thư thả, tiếng không lớn cũng không nhỏ quá, vừa niệm vừa lắng tai nghe lại tiếng niệm của ḿnh từng chữ một : Miệng niệm, Tai nghe, Tâm tưởng, ba yếu tố này phải đồng thời tương ưng với nhau. Khi niệm Phật phải niệm cho rơ ràng, b́nh tĩnh, không ồn ào, không hoảng hốt. Quan trọng nhất là, khi niệm Phật không phải niệm bằng cái miệng, mà cần phải lắng tai để nghe âm thanh niệm Phật của ḿnh, nghe thấy rơ ràng, chú tâm mà nghe, tức là trong tâm của ḿnh cũng đồng thời vừa niệm vừa nghe danh hiệu Phật, mỗi niệm mỗi niệm rơ ràng, trong sáng.

Mục đích của niệm Phật là đạt đến cảnh giới nhất tâm bất loạn, mà muốn đạt đến cảnh giới đó cần phải mặc niệm, tức là phải niệm thầm, niệm bằng ư thức, mà nói chính xác là niệm bằng tâm sở tầm và tâm sở tứ, tức niệm bằng ngôn ngữ của ư.

Mặc niệm, hay niệm thầm, c̣n gọi là Kim cang tŕ, tức là đem danh hiệu Phật đặt vào trong tâm, niệm bằng ngôn ngữ của tâm, miệng không phát ra âm thanh. Tuy không niệm ra tiếng nhưng tâm lại nghe được tiếng, đó là tiếng nói hay ngôn ngữ của tâm, gọi là ư ngôn, mỗi chữ mỗi câu đều nghe được rất rơ ràng. Niệm Phật bằng cách này th́ từ từ tâm sẽ hướng về một cảnh, ngoại duyên từ từ bị cắt đứt, khi đó chúng ta mới đạt được định.

Hai yếu tố tâm sở tầm và tứ rất quan trọng trong quá tŕnh tu niệm. Tầm là nắm lấy danh hiệu Phật, khởi niệm niệm Phật ; tứ là duy tŕ chánh niệm trong suốt quá tŕnh niệm Phật, tức là khi nào cũng ư thức, chánh niệm, tỉnh giác biết rơ ḿnh đang niệm Phật, chỉ có tâm với danh hiệu Phật, ngoài ra không có bất kỳ một ư niệm nào khác. Niệm Phật theo cách này th́ chỉ cần năm mười phút là ḿnh có được hỷ lạc liền, như trong kinh Phật nói: “Một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ”.

Tịnh Độ

Vu Lan
Phật pháp căn bản
Phật học thường thức
Phật đản
Lời Phật dạy
Chuyện đời - Chuyện đạo


Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bảnện đạo TĂNG N

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời - Chuyện đN

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bảnaTE ULLAMBANA3;̐

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời -

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời - Chuy&#

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đ

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bảnện &

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản0;I XƯA841

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản0;I XƯA73;ạo#432;

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản0;I XƯ

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản0;I XƯA&#

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời

Phật pháp căn bản
Phật pháp căn bản Công

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời - Chuyện đạo
Website: http://chuavanhanh.free.fr
Email: chuavanhanh@free.fr