Trang chủ En français Tin tức H́nh ảnh Thơ Văn Âm nhạc
Phật pháp căn bản
Thiền là ǵ?

Thiền, tiếng Phạn là dhyāna (Pali: jhāna), phiên âm là Thiền-na, dịch ư là tĩnh lự. Tĩnh là sự yên lặng. Lự là suy tư. Tĩnh lự là đ́nh chỉ mọi tư tưởng hay cột tâm ư chuyên chú vào một đối tượng duy nhất. Thiền c̣n gọi là “tư duy tu”, “khí ác”, tức xả ly tất cả các tâm niệm ác, ngũ triền cái (dục, sân, hôn trầm, trạo cử, nghi). Thiền c̣n được gọi là “công đức tùng lâm”, ư muốn nói Thiền là cái nhân có khả năng phát sinh công đức, trí tuệ, thần thông và bốn tâm vô lượng…

Nói một cách dễ hiểu, Thiền là lựa chọn một đối tượng rồi đặt tâm ư trên đối tượng ấy, khiến cho khả năng đốt cháy, thiêu hủy các pháp đối nghịch, cụ thể là các triền cái và các kiết sử phiền năo. Đối tượng của Thiền là tất cả những ǵ đang xảy ra xung quanh chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, như hơi thở, tách trà… Trong Phật giáo Nguyên Thủy, đối tượng chính của Thiền gồm có bốn lănh vực: thân, thọ, tâm và pháp, gọi là Thiền Tứ niệm xứ.

Có khi ta dùng chữ Thiền chung với chữ Thiền định (dhyāna-samādhi). Đó cũng là trạng thái không c̣n tán loạn của tâm khi chuyên chú vào một đối tượng. Thiền định là tập trung tâm ư vào một đối tượng duy nhất không cho tâm tán loạn, để cho tâm được vắng lặng nhằm quán chiếu và suy nghiệm chân lư. Lục Tổ Huệ Năng nói: “Bên ngoài ĺa tướng gọi là Thiền, bên trong không loạn gọi là Định”. Như vậy, Thiền định là dứt bặt các duyên, giữ tâm ư thanh tịnh, ngoài không theo các tướng, trong tâm chẳng loạn, trong sạch mọi vọng tưởng. Đây là một phương pháp tu tập vô cùng quan trọng để đưa hành giả đến giác ngộ giải thoát. Nó như là trái tim của Phật giáo. Cho nên, Pháp cú, kệ số 110, nói:

“Dầu sống một trăm năm,
Ác giới, không Thiền định,
Tốt hơn sống một ngày,
Tŕ giới, tu Thiền định”.


Tu Thiền là đưa tâm trở về với thực tại, để tiếp xúc sự sống mầu nhiệm trong ta và ngoài ta, chấm dứt mọi vọng tưởng điên đảo, gạn lọc tham, sân, si trong nội tâm. Đời sống Thiền là một đời sống thanh tịnh, làm chủ tư tưởng, làm chủ bản thân trong các hành động hướng về chân, thiện, mỹ, đem lại an lạc cho ḿnh, cho người và cho xă hội. Đó là một đời sống có ư chí đạo đức, không bị lệ thuộc vào các dục vọng, không bị hoàn cảnh chi phối, luôn sống trong tỉnh thức, chánh niệm. Thiền là sự sống, nhưng là sự sống có chất liệu của sự hiểu biết và thương yêu, của chánh niệm, tỉnh giác bây giờ và ở đây. Do vậy, Thiền là vấn đề trực nghiệm, trực giác, chứ không là vấn đề luận giải bằng tri thức. Cho nên, chư Tổ Thiền tông đă cảnh cáo: “giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự”. Trúc Lâm Điều Ngự Trần Nhân Tông nói: “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền”.

Nội dung cơ bản của Thiền định Phật giáo gồm có Thiền chỉ và Thiền quán.

Thiền chỉ

Thiền chỉ, hay Thiền vắng lặng, tiếng Phạn là śamatha (Pali: samatha). Chỉ là dừng lại. Dừng lại sự tán loạn, sự quên lăng, vọng niệm, dừng lại sự đuổi bắt một đối tượng nào đó. Thiền chỉ là trạng thái tâm chuyên chú vào một cảnh, một đối tượng, khiến cho mọi vọng tưởng đều chấm dứt, là cách tập trung tâm ư vào một vật và không để bị chi phối bởi bất cứ một yếu tố nào khác, cả chủ quan lẫn khách quan. Chẳng hạn, ḿnh dừng suy nghĩ để tập trung theo dơi hơi thở vào ra, hay trú tâm trên một đối tượng (như danh hiệu Phật A Di Đà), hay thuần phục tâm bằng cách nhận ra sự khởi động, phát sinh của một ư nghĩ và lập tức gián đoạn nó ngay… đó là ḿnh thực tập Thiền chỉ.

Trong cuộc sống hằng ngày nhiều khi ta sống mà tâm ḿnh để một nơi thân để một ngả, con người của ta bị chia năm sẻ bảy, tâm ư trôi dạt ngàn nơi, có khi phiêu dạt về quá khứ xa xăm, có khi bồng bềnh ở tương lai mờ mịt…cho nên chúng ta mới chuốc lấy khổ đau, phiền năo. Bây giờ ḿnh không muốn khổ nữa, ḿnh không muốn để cho tâm ḿnh đi hoang nữa, không muốn để cho tâm rong ruỗi và trôi lăn theo vọng niệm nữa, ḿnh muốn dừng lại, dừng cái tâm náo động của ḿnh, để nó định tĩnh về một nơi, bằng cách nhiếp tâm vào câu niệm Phật, hay theo dơi hơi thở… Đó là ḿnh đang tu tập Thiền chỉ. Khi tâm ḿnh dừng lại được, th́ ḿnh có khả năng nhận diện và tiếp xúc, tức là ḿnh biết được những ǵ đang xảy ra trong giờ phút hiện tại. Nhận diện ở đây chỉ là sự nhận diện đơn thuần mà không có phê phán, chỉ trích và lên án ǵ hết. Như là nhận diện sự có mặt của hơi thở. Khi thở vào ḿnh biết ḿnh thở vào, thở ra ḿnh biết ḿnh thở ra, ḿnh tiếp xúc với hơi thở, sống với hơi thở, trở về làm một với hơi thở. Khi đó ḿnh cảm thấy được nuôi dưỡng, được trị liệu và bắt đầu cảm thấy thoái mái, thanh tịnh, an lạc, không c̣n bị lo âu và tham muốn lung lạc, thống trị.

Tu tập Thiền chỉ có ba cách:

1) Hệ duyên thủ cánh chỉ: Là buộc tâm tại chót mũi và giữa rún v.v... khiến tâm không tán loạn. Kinh chép: “Buộc tâm không buông lung, cũng như xích con vượn”. (Chúng ta cũng có thể buộc tâm vào hơi thở, bước chân, danh hiệu Phật…)

2) Chế tâm chỉ: Là tùy tâm vừa khởi liền kềm hăm lại, không cho nó dong ruổi tán loạn. Kinh chép: “Năm căn, tâm là chủ, thế nên các ông phải khéo dứt tâm”. (Gọi là biết vọng không theo)

3) Thể chơn chỉ: Là tùy tâm khởi niệm tất cả pháp đều biết do nhân duyên sanh, nó không có tự tánh th́ tâm không chấp. Nếu tâm không chấp th́ vọng niệm dứt, cho nên gọi là Chỉ. (Luận Chỉ Quán ghi: Chỉ là quán sát các pháp có mà không thực có, thực chất là duy Tâm)

Tác dụng của Thiền chỉ là gom tâm lại một chỗ và đè nén hay làm muội lược năm triền cái, là định tâm trong một đối tượng nhất định, làm phát sinh hỷ lạc. Tâm hỷ lạc đưa đến chứng đắc các tầng Thiền sắc giới và Vô sắc giới. Bát định (gồm Tứ Thiền sắc giới và Tứ Thiền vô sắc giới) là kết quả tu tập của Thiền chỉ. Tuyệt đỉnh của Thiền chỉ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nhưng dù đạt đến tầng vắng lặng cao siêu cùng tột này, hành giả vẫn c̣n chưa trọn vẹn phát triển đủ ánh sáng trí tuệ để đánh tan đêm tối vô minh ngủ ngầm trong luồng nghiệp. Vô minh và ái dục giống như hai con thú dữ. Hành giả chỉ nhốt trong chuồng mà không diệt. Ngày nào sút chuồng nó sẽ c̣n là tai hại lớn lao hơn. V́ lẽ ấy hành giả chưa tuyệt đối châu toàn, chưa thoát ra khỏi ṿng sanh tử trong Tam Giới (Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới), chưa hoàn toàn giải thoát.

Trước ngày thành đạo, đức Thế Tôn cũng đă trải qua các tầng Thiền bát định, nhưng Ngài không thỏa măn với những thành quả ấy. Đă kiểm soát và khắc phục tâm, tạm thời làm chủ ḿnh, nhưng Ngài nhận định rằng bấy nhiêu đấy chưa đủ. Thú dữ vẫn c̣n đó. Phải tận diệt mọi nhiễm ô và mọi lậu hoặc mới tuyệt hậu hoạn. Mục tiêu cứu cánh của Ngài là chứng ngộ Chân lư cùng tột, chứng ngộ Thực tại, thấy sự vật đúng như sự vật là như vậy, tức là chứng ngộ ba đặc tướng của các pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngă. Chính nhờ trí tuệ trực giác này mà Bồ Tát đập vỡ tung cái vỏ Vô minh dày cứng đă bao phủ Ngài từ vô lượng kiếp để vượt đến thực tại, để chứng ngộ tận tường và trọn vẹn Bốn chân lư cao thượng "trước kia chưa từng được nghe", qua con đường Thiền quán.

Thiền quán

Thiền quán, hay Thiền minh sát, tiếng Phạn là Vipasyanā (Pali: Vipassana). Vipasyanā có nghĩa là thấy mọi sự vật như thật bản chất của chúng. Quán là xem xét thực tướng của mọi sự vật bằng ánh sáng của trí tuệ phát sinh từ tâm. Thiền quán là tĩnh tâm tư duy, quán chiếu chân lư, là ư thức một cách rơ ràng những ǵ đang xảy ra trong bốn lănh vực thân, thọ, tâm và pháp (Tứ niệm xứ).

Thiền quán là nh́n sâu, nh́n kỹ để chứng nghiệm thực tại, tức thấy được đặc tướng của các pháp là vô thường, vô ngă, tương tức và Niết-bàn. Khác với Thiền chỉ, Thiền quán không cần phải chọn những đề mục đặc biệt để tập chú tâm, mà chỉ cần nh́n, quán sát để hiểu rơ sự vật như nó là.

Có nhiều cách thực hành Thiền quán, như quán Tứ niệm xứ, quán tâm từ bi, quán ngũ uẩn, quán duyên khởi… Quán Tự Tại là vị Bồ tát thực tập Thiền quán thành công khi nh́n sâu vào bản chất của năm uẩn và thấy được đặc tướng duyên sanh vô ngă của nó, cho nên đă vượt qua được khổ đau, ách nạn. Cái thấy đó là tuệ giác bát-nhă, có khả năng chuyển hóa, đốt cháy mọi khổ đau, phiền năo.

Chúng ta có thói quen nh́n sự vật hiện tượng một cách hời hợt, nh́n khơi khơi, nên không thấy được chân tướng của mọi sự vật như là chúng thật sự hiện hữu, và v́ vậy thường bị cái vẻ bề ngoài của chúng đánh lừa (phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng). Đó là nguồn gốc của mọi khổ đau, phiền năo. Khi thực tập Thiền quán, chúng ta nh́n sâu vào ḷng sự vật để quán chiếu, thẩm sát để chứng nghiệm, thấy rơ, hiểu sâu và hiểu đúng thực chất của sự vật là duyên sinh, vô thường, vô ngă. Đây là cái thấy rất sâu sắc và đầy tuệ giác. Ḿnh thấy rằng mọi sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh tồn và hoại diệt, bản chất của mọi sự hiện hữu đều tương quan nhân quả, mọi đổ vỡ mất mát thương đau đều có nguyên do của nó… Nhờ cái thấy và hiểu này mà chúng ta cởi bỏ được những mê lầm chấp trước và đạt tới trạng thái an lạc, tự do, giải thoát.

Kinh Kim Cương đề nghị chúng ta thực tập Thiền quán bằng cách: “Nh́n một cách sâu sắc để thấy hết thảy các pháp đều do duyên sinh, tất cả đều như mộng, như huyễn, như bọt nước, như sương mai, như ánh chớp”. Khi thực tập cái nh́n như vậy, mọi tham ưu ở đời đều được đốt cháy, hành giả đạt được trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, và dần hướng đến giác ngộ giải thoát:

“Nhờ hiểu biết như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đă giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: ‘Ta đă giải thoát’. Ta đă biết: ‘Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành. Việc cần làm đă làm. Không c̣n trở lui trạng thái này nữa’. Này Aggivessana, đó là Minh thứ ba, Ta đă chứng được trong canh cuối, vô minh diệt minh sanh, mê tối diệt ánh sáng sanh, do ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần” (Trung Bộ Kinh).

Có hai loại Thiền quán:

1. Đối trị quán: Như quán bất tịnh đối trị tham dục, quán từ bi đối trị giận hờn, quán giới phân biệt đối trị chấp ngă, quán sổ tức đối trị loạn động v.v...
2. Chánh quán: Quán các pháp không có tánh cố định (vô ngă), không tồn lại lâu bền (vô thường), đều do nhân duyên sanh. Nhân duyên không tánh tức là thật tướng của các pháp. Trước rơ cảnh bị quán tất cả đều không th́ tâm năng quán tự nhiên không khởi. (Luận Chỉ Quán: Quán là biết các pháp vốn chẳng sinh, nay chẳng diệt, nhưng do tâm tánh duyên khởi nên không phải không có cái thể dụng hư vọng, tựa như ảo thuật, chiêm bao, chẳng phải có mà có)

Thiền quán không hạn chế đối tượng của niệm bằng cách chỉ chú tâm vào một đối tượng bất di dịch mà hướng tâm vào những trạng thái luôn luôn biến đổi của tâm và thân, ghi nhận bất luận hiện tượng nào xảy diễn đến ḿnh. Công phu hành Thiền của hành giả là giữ chú niệm của ḿnh bám sát vào bất luận những ǵ ḿnh tri giác, nhưng buông bỏ tất cả, không bám níu ǵ hết. Bí quyết của Thiền quán là chủ thể quán chiếu với đối tượng quán chiếu trở thành nhất như, bất nhị. Nghĩa là ranh giới giữa chủ thể và đối tượng không c̣n, ḿnh với đối tượng là một.

Sự tương quan giữa Thiền chỉ và Thiền quán

Trong Thiền chỉ, hành giả chọn và xử dụng một trong số các môn, như nhăn môn hay ư môn. C̣n các môn khác th́ không dùng. Trong Thiền quán, hành giả không nhất thiết chọn một đề mục nào mà dùng cả sáu môn cùng với sáu đối tượng của nó.
Trong Thiền chỉ, khi hành giả chọn đề mục, dùng tâm quán tưởng ở trong đề mục ấy cho đến lúc tâm có đủ năng lực đè nén năm triền cái, năm chi Thiền dần dần hiện rơ, tâm an trụ vững trong đề mục và cuối cùng chứng đắc các tầng Thiền. Năm triền cái đối nghịch với Thiền chỉ v́ là chướng ngại, cản trở tâm an trụ, nhưng không đối nghịch với Thiền minh sát. Niệm về năm triền cái, tức lấy sự hay biết năm chướng ngại tinh thần này làm đề mục Thiền, là một phần của niệm pháp, một trong bốn lănh vực quán niệm.

Đối tượng của Thiền minh sát là thực thể pháp trong thời hiện tại, những ǵ thật sự xảy diễn trong khoảnh khắc hiện tại. Đối tượng của Thiền minh sát là Tứ niệm xứ. Các đối tượng chế định, do hành giả tự tạo như ấn chứng, cảm giác hay h́nh ảnh v.v... không thể dùng làm đối tượng Thiền minh sát, chỉ dùng làm đối tượng của Thiền vắng lặng.
Dầu Thiền vắng lặng và Thiền minh sát có sự khác biệt nhau song Thiền vắng lặng có thể làm nền tảng cho Thiền minh sát như trường hợp Đức Phật. Ngài tiến cao đến mức cùng tột của Thiền vắng lặng là Phi tưởng phi phi tưởng rồi xả Thiền, quán chiếu thân và tâm Ngài, dùng chi Thiền hỷ, lạc v.v... làm đối tượng và thấy rơ vô thường, khổ, vô ngă. Đó là “Thiền minh sát dùng Thiền vắng lặng làm nền tảng”:

"Như chim có hai cánh
Thiền tập có chỉ quán
Hai cánh chim nương nhau
Chỉ và quán song hành. (Tăng Nhất A-hàm)


Kết luận

Thiền là phần thực tập ṇng cốt của đạo Phật: “Này các thầy Tỷ-kheo, con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt qua mọi sầu năo, khổ, ưu, thành tựu chánh lư, hiện chứng Niết-bàn là con đường này: đó là bốn niệm xứ” (Kinh Tứ niệm xứ).

Thiền chỉ là dừng lại. Thiền quán là nh́n sâu. Đây là hai phương pháp giúp chúng ta trở về trong giờ phút hiện tại, để cảm nhận sâu sắc sự sống đang có mặt rất mầu nhiệm bây giờ và ở đây, mà không cần phải t́m kiếm đâu xa. Hạnh phúc là những ǵ chúng ta đang có mà không bị ràng buộc bởi bất cứ một thứ ǵ và cũng không có ǵ lay chuyển được. Hạnh phúc đó có mặt trong sâu thẳm tâm thức của mỗi chúng ta. Nó sẽ phát sinh một khi chúng ta biết dừng lại mọi vọng tưởng và nh́n sâu vào tâm thức ḿnh, vào đối tượng ḿnh đang quán chiếu, và bất cứ lúc nào chúng ta cũng thực tập được việc này. Đó là cách giúp ta tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, lo toan... trong cuộc sống.

Phật pháp căn bản

Vu Lan
Tịnh Độ
Phật học thường thức
Phật đản
Lời Phật dạy
Chuyện đời - Chuyện đạo


Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời - Chuyện đN

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời -

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời - Chuy&#

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đ

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đời - Chuyện đạo

Chuyện đời - Chuyện đạo
Chuyện đ

Tịnh Độ
Tịnh Độ841;t-La Lạt-Ma#273;ường đến chùas

Vu Lan
Vu Lanu Têt 2008&

Vu Lan
Vu Lanu Têt 2008ồ chỉ dN

Tịnh Độ
Tịnh Đ

Niệm Phật
Hồi đức Phật c̣n tại thế, các Phật tử thường hướng về trú xứ mà Ngài và chúng Tăng đang cự ngụ để đảnh lễ và xưng niệm danh hiệu của Như lai, đầy đủ mười hiệu, để tỏ ḷng cung kính, tri ân, và cầu nguyện ...

Niệm
Trong Phật giáo, ‘niệm’ là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp; nó được xếp vào một trong năm loại tâm sở biệt cảnh...

Du già
Du-già (Yoga), trong quá khứ xa xưa, vốn là một phương pháp tu hành của các tín đồ thuộc nhiều tôn giáo ở Ấn độ. Phạn ngữ Yoga, mà tiếng Tây tạng đọc là Rnal-ḥbyor, có nghĩa là ‘tương ưng’, tức là dùng phương pháp điều hoà hơi thở để nhiếp tâm khiến cho đạt được trạng thái tương ưng với chánh lư...

Ngày tận thế
Một ngày nữa lại trôi qua, tuổi đời ngắn lại, như cá sống trong môi trường mà nước mỗi ngày mỗi cạn dần, hỏi có ǵ vui ? Cho nên mọi người hăy gắng siêng năng tu tập, gấp rút như chữa lửa đang cháy trên đầu...
Website: http://chuavanhanh.free.fr
Email: chuavanhanh@free.fr